Monday 25 April 2016

Quyết định 618 có phải là một bước đột phá về xử lý nợ xấu? (Bài đăng trên CafeF, 25/4/2016)

http://cafef.vn/quyet-dinh-618-co-phai-la-mot-buoc-dot-pha-ve-xu-ly-no-xau-20160425092126528.chn

Ngày 12/4 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Quyết định 618/QĐ-NHNN về việc xây dựng và triển khai Phương án mua nợ xấutheo giá trị thị trường của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Quyết định này quy định cụ thể, chi tiết phạm vi, đối tượng, điều kiện đối với các khoản nợ xấu mua theo giá thị trường; Nguyên tắc, trình tự thực hiện mua nợ xấu theo giá thị trường; Nguyên tắc xác định giá mua nợ; Nguồn vốn sử dụng để mua nợ theo giá thị trường; Xử lý các khoản nợ xấu đã mua.
Ngay lập tức, nhiều người đã cho rằng NHNN cho triển khai mua nợ xấu theo giá trị trường theo Quyết định 618 sẽ là một bước đột phá trong giải quyết nợ xấu của VAMC so với cách mua nợ xấu cũ, tức là VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt cho tổ chức tín dụng bán nợ xấu thay vì tiền mặt.
Cách mua nợ xấu không thay đổi
Thực tế, Quyết định 618 về bản chất chỉ là văn bản pháp lý cụ thể hóa một số nội dung liên quan đến mua nợ xấu theo giá thị trường mà đã được quy định trong các văn bản pháp luật ban hành trước đó, bao gồm Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC; Nghị định 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 sửa đổi Nghị định 53; Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 6/9/2013 của NHNN về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC; Thông tư 14/2015/TT-NHNN ngày 28/8/2015 sửa đổi Thông tư 14…
Theo các văn bản pháp luật trước đó như nêu trên, VAMC mua nợ xấu theo 2 hình thức: (1) mua nợ xấu theo bằng trái phiếu đặc biệt của VAMC phát hành cho tổ chức tín dụng bán nợ xấu. Trái phiếu này có mệnh giá bằng giá trị ghi sổ số dư nợ gốc khách hàng vay chưa trả, khấu trừ số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập chưa sử dụng cho khoản nợ xấu này; và (2) mua nợ xấu theo giá thị trường trên cơ sở thỏa thuận, và giá trị khoản nợ xấu được đánh giá lại.
Do Quyết định 618 chỉ đề cập đến việc xây dựng và triển khai Phương án mua nợ xấu theo giá thị trường của VAMC nên có thể hiểu rằng việc mua bán nợ xấu của VAMC theo cách (1) nói trên vẫn được giữ nguyên, theo những quy định trong các văn bản pháp luật của Chính phủ và NHNN đã nêu.
Những tương đồng
Về cơ bản, Quyết định 618 chỉ sắp xếp lại các quy định liên quan có trong các văn bản luật nêu trên theo các hạng mục có thể khác với các văn bản luật nêu trên.
Cụ thể, các quy định về phạm vi, đối tượng và điều kiện đối với các khoản nợ xấu mua theo giá thị trường, nguyên tắc mua nợ xấu theo giá thị trường trong Quyết định 618 đều dựa trên các văn bản pháp lý đã nêu trên.
Về trình tự thực hiện mua nợ xấu theo giá thị trường, Quyết định 618 nêu 4 bước, bao gồm xác định danh mục khoản nợ tiềm năng, xây dựng kế hoạch mua nợ xấu theo giá thị trường, định giá nợ xấu, và thỏa thuận, ký kết hợp đồng mua nợ xấu. Cả 4 bước này đều đã được quy định rải rác, ví dụ, ở các Điều 23, 24, và 26 của Thông tư 19/2013 và Thông tư 14/2015.
Về xử lý nợ xấu đã mua, Quyết định 618 đề ra 2 bước xử lý gồm phân loại nợ xấu đã mua (để áp dụng biện pháp xử lý nợ thích hợp), và áp dụng các biện pháp xử lý thích hợp. Quy trình xử lý nợ xấu đã mua tương tự như thế này tuy không có trong các nghị định và thông tư liên quan nhưng các nội dung này đều đã được đề cập đến rải rác trong các nghị định và thông tư này. Ví dụ, biện pháp cơ cấu lại khoản nợ, hỗ trợ khách hàng trong Quyết định 618 thì đã có ở trong các Điều 27, 28, 29, 31, và 36 của Nghị định 53/2013.
Về tổ chức thực hiện, Quyết định 618 hầu như lặp lại các quy định có trong Nghị định 53/2013, trừ một số khác biệt nhỏ, ví dụ như có thêm sự xuất hiện của Vụ Chính sách tiền tệ và Vụ Tổ chức cán bộ, với những nhiệm vụ cụ thể theo chức năng. Ngoài ra, VAMC cũng có thêm một số trách nhiệm cụ thể liên quan đến triển khai mua nợ xấu theo giá thị trường mà không được cụ thể hóa như trong các nghị định và thông tư khác. Tương tự như vậy là phần về trách nhiệm của các tổ chức tín dụng.
Những khác biệt
Chỉ có một số ít khác biệt đáng kể giữa Quyết định 618 và các văn bản luật nói trên.
Về nguyên tắc xác định giá mua nợ, khác biệt đáng kể là Quyết định 618 có thêm một dòng: “Trường hợp xét thấy cần thiết, Công ty Quản lý tài sản tham khảo giá trị mua, bán các khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm có tính chất tương đồng trên thị trường (nếu có) để xác định giá mua nợ”. Thông tư 19/2013 và Thông tư 14/2015 cũng có một điều khoản có nội dung tương đồng (Điều 34), nhưng chỉ là dành cho việc xác định giá bán nợ xấu, chứ không phải giá mua nợ xấu.
Như vậy, có thể nói việc tham khảo giá mua, bán nợ xấu, tài sản bảo đảm tương tự trên thị trường để xác định giá mua nợ xấu là một “đột phá” của Quyết định 618 so với các văn bản luật liên quan hiện thời. Nhưng như thế lại nảy sinh vấn đề là Quyết định 618 tuy là một văn bản luật cấp thấp hơn Thông tư và trên nữa là Nghị định của Chính phủ nhưng lại có quy định không có trong, không đúng với tinh thần của các văn bản luật cấp cao hơn. Nói cách khác, NHNN cần phải xem lại cơ sở pháp lý của Điều 34 của Quyết định 618.
Về nguồn vốn sử dụng để mua nợ xấu theo giá thị trường, ngoài các nguồn vốn quy định trong Nghị định 53/2013 như vốn điều lệ, trái phiếu (đặc biệt), và vốn từ các quỹ được trích lập theo quy định của pháp luật, Quyết định 618 còn nêu thêm 2 nguồn vốn khác gồm có vốn từ hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế, và vốn ủy thác của các nhà đầu tư.
Nhưng vì Nghị định 53/2013 có nêu thêm một nguồn vốn khác gọi là “các nguồn vốn huy động khác theo quy định của pháp luật” nên có thể coi 2 nguồn vốn mới, được nêu trong Quyết định 618 thực chất chỉ là sự cụ thể hóa Nghị định 53/2013 mà thôi. Tuy vậy, điều đáng nói ở đây là Quyết định 618 xem ra đã chính thức cho phép nhà đầu tư nước ngoài, ít nhất là gián tiếp, thông qua hợp tác với VAMC, được mua nợ xấu ở Việt Nam. Vì theo cách hiểu của dư luận bấy lâu nay, nợ xấu chỉ được khuyến khích bán cho nhà đầu tư trong nước.
Tóm lại, Quyết định 618 nếu có điểm mới nào đó để có thể coi là “đột phá” trong việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam thì đó chỉ là việc cho phép VAMC được phối hợp với các nhà đầu tư nước ngoài để thu hút nguồn vốn (và kinh nghiệm định giá, xử lý các khoản nợ xấu mua theo giá thị trường). Tuy nhiên, nhà đầu tư nước ngoài có mặn mà với điểm “đột phá” này hay không lại là chuyện khác, nếu họ vẫn thấy chưa có thị trường mua bán nợ minh bạch và hiệu quả ở Việt Nam để cho các khoản nợ mua về có thể bán ra dễ dàng và có lãi.

Monday 18 April 2016

Phát hành 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế - Nửa đầu năm nay là thời điểm tốt nhất (Trả lời phỏng vấn Đại biểu Nhân dân, ngày 16/4)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=370614

Cuối tháng 3 vừa qua, Bộ Tài chính tiếp tục có động thái thăm dò thị trường vốn quốc tế nhằm chuẩn bị cho việc phát hành 3 tỷ USD trái phiếu - đã được QH phê duyệt vào năm ngoái.

- Theo ông, việc Việt Nam phát hành 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế trong năm nay có điểm nào thuận lợi? 

- Đầu tiên, Việt Nam có thêm thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng cho đợt phát hành, chứ không phải chạy nước rút, vội vã như dự định phát hành vào cuối năm ngoái. Thêm nữa, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã bày tỏ rõ ý định sẽ chỉ nâng lãi suất từ từ và có chừng mực trong năm nay. Dự kiến nâng thêm khoảng 1/2 điểm phần trăm trong 2 đợt thay cho mức 1 điểm phần trăm trong nhiều đợt như kế hoạch tuyên bố ban đầu. Như vậy, nếu Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế trong năm nay thì sẽ vừa có đủ thời gian để chuẩn bị những phương án phát hành khác nhau, vừa tận dụng được mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp, tất nhiên là đã cao hơn một chút so với cuối năm trước.

- Còn những khó khăn thì sao, thưa ông?
- Việt Nam càng phát hành muộn thì càng bộc lộ ra nhiều số liệu cập nhật mới bất lợi hơn về tình hình “sức khỏe” vĩ mô của nền kinh tế, đặc biệt về nợ công, thâm hụt ngân sách… là những con số đang xấu đi từng tháng, từng quý. Những diễn biến này bất lợi cho Việt Nam về mặt lợi suất chào mời, cụ thể là phải chào với lợi suất cao hơn để hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế để bù đắp vào rủi ro đã và đang tăng lên về kinh tế vĩ mô - cũng chính là khả năng trả nợ - của Việt Nam.

- Như vậy theo ông thời điểm nào là tốt nhất để phát hành ?

- Tôi cho rằng tốt nhất là phát hành ngay trong nửa đầu năm nay.

- Có ý kiến cho rằng, nếu phát hành theo đúng kế hoạch ban đầu - tức là cuối năm 2015 - thì kỳ vọng lợi tức sẽ tốt hơn so với năm nay. Ông có thấy như vậy không?

- Như đã nói ở trên, phát hành vào cuối năm 2015, nhất là trước khi Fed tăng lãi suất vào thời điểm cuối năm 2015, thì Việt Nam sẽ có cái lợi là lợi suất trái phiếu sẽ thấp hơn so với thời điểm sau này, trong năm nay, đặc biệt khi Fed một lần nữa tăng lãi suất vào thời điểm nào đó trong những tháng sắp tới. Bù lại, thời gian cuối năm vừa qua tỏ ra là quá gấp gáp cho Việt Nam để có thể chuẩn bị đầy đủ các phương án phát hành thích hợp với các đối tác thích hợp. Vì vậy, phát hành trong nửa đầu năm nay cũng không phải là phương án tồi.

Chính phủ nhiệm kỳ mới cần thời gian để ghi dấu ấn

- Ngoài phương án phát hành trái phiếu quốc tế, theo ông, Bộ Tài chính còn có thể lách qua “khe cửa” nào khác để cứu ngân sách nhà nước nay không?

- Vì phát hành trong nửa đầu năm nay cũng không phải là phương án tồi nên Bộ Tài chính cần cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu thấy chỉ còn con đường phát hành trái phiếu ngoại tệ để bù đắp thâm hụt ngân sách thì cần phải làm sớm, không nên dây dưa, càng để lâu càng bất lợi về mặt lợi suất. Còn nếu thấy vẫn có thể “giật gấu vá vai” ở đâu đó được, ví dụ từ các nguồn thu, từ phát hành bằng VNĐ trong nước, thì tốt nhất là không nên phát hành trái phiếu ngoại tệ ra nước ngoài vì nguồn huy động này có nhiều rủi ro - chủ yếu liên quan đến yếu tố tỷ giá - hơn là lợi ích.

 - Có gợi ý rằng Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu trong nước bằng ngoại tệ. Quan điểm của ông về đề xuất này như thế nào?

- Ý tưởng này hết sức hời hợt, nguy hiểm. Người ta đơn giản nghĩ rằng người dân và doanh nghiệp đang phải gửi USD với lãi suất 0%, do đó ngân hàng huy động được nguồn vốn USD với lãi suất 0% thì sẽ có khả năng và mong muốn mua trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ với lợi suất chỉ nhỉnh hơn 0% một chút và thấp hơn nhiều so với lợi suất trái phiếu bằng VNĐ. Vì vậy, phát hành trái phiếu ngoại tệ trong nước, theo những người này, là có lợi về mọi mặt.

Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Người dân và doanh nghiệp có gửi USD vào ngân hàng thì thường chỉ gửi ở dạng không kỳ hạn khi lãi suất hạ xuống 0%. Bởi thế các ngân hàng thương mại Việt Nam dù muốn cũng sẽ không thể huy động được với số lượng ngoại tệ đủ lớn và quan trọng hơn là có kỳ hạn tương đối dài để có thể phần nào khớp với kỳ hạn trái phiếu của Chính phủ. Ngược lại, thực tế còn cho thấy các ngân hàng đang phải “đi đêm” với cá nhân và doanh nghiệp có tiền gửi USD để huy động được USD đáp ứng cho các nhu cầu của ngân hàng. Do đó, không có lý do gì các ngân hàng lại có thể bằng lòng và có khả năng mua trái phiếu ngoại tệ của Chính phủ với lợi suất “bèo”, nếu như không muốn nói ngược lại là thậm chí còn cao hơn cả khi Chính phủ phát hành ra nước ngoài. Minh chứng cho điều này là gần đây Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phải huy động 200 triệu USD từ nước ngoài chứ không phải từ thị trường trong nước.

- Theo ông, bộ máy Chính phủ nhiệm kỳ mới có ảnh hưởng như thế nào đến việc phát hành trái phiếu quốc tế lần này?

- Còn quá sớm để kỳ vọng những tác động theo hướng tích cực nào đó từ Chính phủ nhiệm kỳ mới. Chính phủ nhiệm kỳ mới cần phải có thời gian ít nhất một vài quý để ghi dấu ấn lên nền kinh tế, lên kỳ vọng của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng ít ra thì cũng có thể kỳ vọng Chính phủ mới sẽ tiếp tục những công việc dang dở của Chính phủ nhiệm kỳ trước, nên vị thế và xếp hạng rủi ro tín dụng của Việt Nam ít ra sẽ không có thay đổi theo chiều hướng đi xuống.

- Xin cảm ơn ông!
Hồng Loan thực hiện

Saturday 16 April 2016

Khi các bộ "đá" nhau... (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 17/4, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.thesaigontimes.vn/144967/Cac-bo-choi-nhau-va-hanh-dong-cua-Chinh-phu.html

Không ít lần dư luận đã được chứng kiến những màn “đá” nhau giữa các Bộ chủ quản ở Việt Nam liên quan đến phân cấp và thực thi trách nhiệm của mình trong những lĩnh vực đòi hỏi phải có sự phối hợp quản lý. Điển hình của những vụ việc như vậy gần đây thường là liên quan đến hai Bộ Tài chính và Bộ Công thương trong những lĩnh vực như quản lý giá sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi, và việc xuất khẩu than, hay việc quản lý thuế nhập khẩu xăng dầu.
Điều đáng nói là chưa cần biết ai đúng hay sai nhưng thường thì những vụ đá nhau này luôn luôn gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước, chứ hầu như chẳng có khi nào lại xảy ra chuyện ngược đời là các Bộ đá nhau và người tiêu dùng được hưởng lợi!
Trong vụ việc về quản lý giá sữa trẻ em dưới 6 tuổi, mặc dù đã có đầy đủ ban bệ, phân công trách nhiệm, và đầy đủ công cụ thi hành pháp lý vậy mà hai Bộ Tài chính và Công thương (và cả Bộ Y tế) vẫn để cho giá sữa bột dành cho trẻ em tăng đều đều, trong khi, theo một số bài báo thống kê cho biết, giá sữa bột dành cho trẻ em ở một số nước trong khu vực hầu như không biến động đáng kể. Tương tự như vậy, cũng vẫn đầy đủ ban bệ, bộ máy liên ngành với những là thông tư với hướng dẫn phối hợp của Bộ Tài chính và Công thương vậy mà trong lĩnh vực xăng dầu, người tiêu dùng vẫn phải móc túi trả tiền nhiều hơn cho xăng dầu do những lỗ hổng trong thuế nhập khẩu xăng dầu làm đội giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Còn trong lĩnh vực than, sự bất nhất trong quản lý xuất khẩu than giữa Bộ Tài chính và Công thương làm cho không những các doanh nghiệp và người tiêu dùng năng lượng đang phải đối mặt với thực tế nhập khẩu than thay vì mua từ trong nước với giá được nhà nước quản lý (thấp hơn giá xuất khẩu), mà còn dẫn đến tình trạng môi trường đang bị ảnh hưởng lớn bởi than tốt, chất lượng cao thì được xuất đi, đồng thời giữ lại hoặc nhập khẩu than kém hơn, chất lượng thấp hơn, gây ô nhiễm môi trường.
Tại sao lại có tình trạng đá nhau này, và cần làm gì để không còn tình trạng này xảy ra nữa?
Theo dõi nội dung chỉ trích và “phản pháo” giữa các Bộ với nhau, có thể thấy các quan chức liên đới của các Bộ đã không… thuộc luật! Lúc thì họ “quên” rằng đã có những thông tư, hướng dẫn do chính Bộ mình, Bộ khác, hoặc Chính phủ đã ban hành, lúc thì họ “chưa hiểu đúng” những văn bản liên đới do các Bộ hoặc Chính phủ đã ban hành. Nhưng như vậy thì kể cũng lạ. Vì công việc thường ngày của các quan chức này là đọc, nghiên cứu và ra văn bản, quyết định, tờ trình… để (phổi hợp với nhau) quản lý các lĩnh vực chuyên ngành của mình. Vậy mà họ vẫn cứ “quên” và “chưa hiểu đúng” nên buộc người ta phải đi đến kết luận rằng họ hoặc có trình độ nhận thức pháp luật quá kém (là khả năng ít xảy ra hơn), hoặc đã quá chểnh mảng và vô trách nhiệm với vai trò và công việc của mình.
Vậy điều gì gây ra sự chểnh mảng, vô trách nhiệm này? Điều này có liên quan đến sự phối hợp giữa các Bộ trong việc quản lý một ngành nghề hay lĩnh vực cụ thể nào đó. Không thể phủ nhận rằng chuyện đá nhau và hậu quả thì người tiêu dùng phải gánh chịu như trên sẽ khó xảy ra hơn nếu có cơ chế quy trách nhiệm rõ ràng khi xảy ra hậu quả thì Bộ nào phải chịu trách nhiệm. Nhưng trong cơ chế phối hợp liên ngành như hiện tại, những quy định hiện tại kiểu như “Bộ X chủ trì, phối hợp với Bộ Y” nghe thì tưởng là chặt chẽ nhưng thực ra lại là lỗ hổng dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm, ỷ lại vào nhau hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Bộ Y có thể chỉ trích Bộ X rằng Bộ X là đơn vị chủ trì việc quản lý lĩnh vực Z, vậy thì họ sẽ đợi Bộ X hành động, và khi có vấn đề trong lĩnh vực này thì Bộ X phải là đơn vị chịu trách nhiệm. Ngược lại, Bộ X cũng có thể sẽ “phản pháo” rằng họ là đơn vị chủ trì nhưng chỉ hành động khi có sự phối hợp của Bộ Y (trên, ví dụ, các khía cạnh kỹ thuật chuyên ngành, ngoài tầm hiểu biết chuyên môn và nhận thức của Bộ X), nhưng Bộ Y đã không phối hợp một cách đầy đủ và đúng đắn nên dẫn đến hậu quả, vì thế Bộ Y mới là đơn vị chịu trách nhiệm...
Sự ỷ lại vào nhau và đổ lỗi cho nhau như trên buộc Chính phủ phải thay đổi cung cách quản lý nền kinh tế theo hướng quy trách nhiệm quản lý một ngành, một lĩnh vực nào đó về một mối duy nhất. Nếu như từ trước đến nay như Chính phủ thấy Bộ Công thương là phù hợp hơn trong vai trò là đơn vị chủ trì quản lý giá xăng dầu thì từ nay về sau Chính phủ hãy giao cho duy nhất Bộ Công thương chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc này mà không nên, không cần lôi kéo Bộ Tài chính vào với vai trò “chủ trì” và/hoặc “phối hợp”. Bộ Công thương từ nay trở đi tự xây dựng và áp dụng phương pháp tính giá cơ sở. Kể cả trong trường hợp có nhiều mức thuế suất khác nhau giữa MFN và các hiệp định thương mại tự do thì Bộ Công thương tự quyết định mức thuế áp dụng mà họ thấy phù hợp nhất.
Nhu cầu phải có cơ chế phối hợp với các Bộ khác, ví dụ như Bộ Tài chính, thực ra có thể thay thế hoàn toàn bởi cơ chế yêu cầu và đáp ứng. Ví dụ, vẫn trong lĩnh vực giá xăng dầu, nếu thấy chưa chắc chắn về tính đúng đắn và phù hợp của phương pháp tính giá cơ sở (xét trên khía cạnh nào đó, ví dụ như đảm bảo công tác điều hành giá xăng dầu theo đúng các quy định về Luật Giá) và/hoặc tính hợp lý của việc áp dụng một loại thuế suất nào đó trong nhiều loại thuế suất MFN và các hiệp định thương mại tự do… thì Bộ Công thương có thể gửi công văn tham vấn, yêu cầu Bộ Tài chính giải đáp, cung cấp các nội dung cần thiết để Bộ Công thương dựa vào đó ra quyết định cuối cùng.
Ở đây sẽ có khả năng Bộ Tài chính không “nhiệt tình” và đáp ứng một cách đúng đắn và có trách nhiệm các yêu cầu của Bộ Công thương. Chưa vội bàn đến khía cạnh Bộ Công thương có thể báo cáo Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về sự thiếu trách nhiệm của Bộ Tài chính, trong trường hợp này thì Bộ Công thương vẫn hoàn toàn có thể tự ra quyết định dựa trên tham vấn các chuyên gia của mình, chuyên gia độc lập, và/hoặc lấy ý kiến đóng góp của dư luận như cách nhiều cơ quan chính quyền vẫn làm từ trước đến nay. Nói cách khác, Bộ Công thương vẫn hoàn toàn có thể độc lập ra quyết định (sau khi tham khảo các nguồn), và phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả, mà không thể lấy lý do là không nhận được sự phối hợp đúng đắn của Bộ Tài chính để biện minh cho việc chậm chễ hoặc sai lầm trong quản lý giá xăng dầu.
Trở lại với chuyện xử lý sự thiếu trách nhiệm có thể có của Bộ Tài chính. Lúc này cần có vai trò của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc quản lý các Bộ trưởng của mình để không có tình trạng “hỏi không đáp”, hoặc đáp mà như không. Nếu Chính phủ và Thủ tướng không làm tốt được việc này, vẫn để tình trạng đến bản thân Bộ Công thương yêu cầu mà Bộ Tài chính không đáp ứng (đến nơi đến chốn) thì thử hỏi trong quan hệ giữa các doanh nghiệp và người dân với các cơ quan công quyền tình trạng sẽ còn tệ hại đến đâu, và tương lai của việc hô hào cải cách hành chính sẽ đi về đâu?

Friday 8 April 2016

Xã hội hóa – không có bữa trưa miễn phí! (Bài đăng trên TBKTSG, 9/4/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/144639/Xa-hoi-hoa---khong-co-bua-trua-mien-phi.html
Cho đến nay nhiều lần dư luận đã được nghe điệp khúc đại loại “nguồn vốn sẽ dựa vào xã hội hóa, không dùng ngân sách” trong nhiều dự án phục vụ công cộng đề xuất bởi một số cơ quan nhà nước mà không rõ tính hiệu quả và sự cần thiết cho quốc kế dân sinh, bị dư luận nghi ngờ có động cơ vụ lợi của những người có liên quan. Trong số này, có những dự án “khủng” mà gần đây nhất thì có dự án lát vỉa hè ở quận 1, thành phố Hồ Chí Minh trị giá 1.000 tỷ đồng, hay dự định xây 3 sân bay ở Tây Bắc, mỗi cái trị giá cũng vài nghìn tỷ đồng mà một phần trong đó được cho là từ vốn xã hội hóa hoặc dưới hình thức hợp tác công tư. Trước đó thì có dự án xây dựng tháp truyền hình cao nhất thế giới của VTV dự toán lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng đã vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận đến mức mặc dù Chính phủ đã phê chuẩn về nguyên tắc nhưng cuối cùng phải kèm thêm điều kiện là không sử dụng ngân sáchchỉ sử dụng vốn xã hội hóa.
Vậy xã hội hóa là cái gì mà người ta hay viện dẫn đến như một chìa khóa thần kỳ để bảo đảm sự hanh thông của các dự án gây sóng trong dư luận ngay từ bước hình thành ý tưởng như vậy?
Tuy vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng thế nào là xã hội hóa, nhưng trong bối cảnh các dự án phục vụ công cộng đang nói đến thì có thể hình dung đó là việc các tổ chức kinh tế phi nhà nước và cá nhân bỏ vốn (cùng với nhà nước) để triển khai các dự án này. Do (phần lớn) vốn cần thiết để triển khai dự án là từ các tổ chức kinh tế phi nhà nước và cá nhân nên các chủ dự án có đầy dủ lý do để cho rằng dự án của họ (phần lớn) không sử dụng vốn ngân sách nên không trực tiếp sử dụng tiền thuế của dân và gây thêm áp lực lên ngân sách nhà nước, và do đó không còn lý do gì để dư luận quan ngại về tính hiệu quả và sự cần thiết của chúng.
Lập luận trên thoạt nghe thì có vẻ có lý. Nếu nhà nước không cần phải bỏ ra (toàn bộ) số tiền cần thiết cho các dự án mà đất nước có thêm nhiều công trình công cộng nhờ các tổ chức và cá nhân “hảo tâm” và “hào hiệp”, tự nguyện bỏ vốn thực thi các dự án dù thì nhà nước hãy để cho các đối tượng này thực thi các dự án dù có thể chúng là các dự án “trên trời”. Mọi thiệt hại, nếu có, nảy sinh từ việc thực thi và vận hành các dự án trên trời này sẽ bị gánh chịu (phần lớn) bởi những đối tượng này, chứ không phải là nhà nước và, tức là, người nộp thuế.
Có lẽ chính vì sự tỏ ra có lý như vậy nên các cơ quan có thẩm quyền dường như dễ dãi hơn trong việc phê duyệt, cấp phép cho các dự án mang tính xã hội hóa này. Ngược lại, các chủ đầu tư các dự án công cộng cũng biết triệt để khai thác lỗ hổng này để lập và xin duyệt những dự án công cộng, nhất là những dự án có quy mô vốn lớn bằng cách “thòng” thêm một dòng “dự án sử dụng vốn xã hội hóa” trong thuyết trình dự án của mình.

Nhưng nếu ta áp dụng nguyên tắc “không có bữa trưa miễn phí!” – không ai tự nhiên cho không ai cái gì – trong bối cảnh này thì có thể thấy vấn đề sẽ hoàn toàn khác. Bỏ qua tính cần thiết của các dự án xã hội hóa nêu trên hoặc các dự án khác vốn vẫn còn nhiều tranh luận trái chiều, một câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao lại có những doanh nghiệp tốt bụng đến nỗi tự đề xuất và cam kết sẵn sàng bỏ hàng nghìn tỷ tiền vốn ra đầu tư mà không chắc chắn sẽ thu hồi vốn từ những dự án xã hội hóa?  

Câu trả lời là chắc chắn các doanh nghiệp này sẽ thu được nhiều mối lợi lớn. Mối lợi đầu tiên mà các doanh nghiệp tham gia dự án xã hội hóa có thể thu được là họ đã đương nhiên “lọt” qua được cửa đấu thầu, không cần phải bỏ giá rẻ nhất (với chất lượng đảm bảo) mà vẫn loại được các đối thủ cạnh tranh khác để giành được hợp đồng xây dựng. Với giá không phải đấu thầu nên sẽ ở mức trên trời thì dù có phải ứng trước vốn ra nhưng xem ra cũng không thấm vào đâu so với lợi nhuận lớn có được từ vị thế gần như độc quyền mà các doanh nghiệp này nghiễm nhiên được hưởng nhờ tham gia dự án với tư cách là bên “xã hội hóa” trong dự án. Cái lợi của doanh nghiệp cũng chính là cái hại cho chủ dự án – chính quyền, khi chính quyền phải trả một số tiền lớn hơn sau này khi dự án hoàn thành và hoạt động so với số tiền lẽ ra họ sẽ bỏ ra khi tổ chức đấu thầu rộng rãi.

Cái lợi thứ hai là các doanh nghiệp tham gia dự án xã hội hóa có thể đưa ra một số yêu cầu hoặc đặc quyền, đặc lợi, ưu đãi đặc biệt, vượt trội so với những dự án thông thường, buộc chính quyền phải đáp ứng để đổi lấy cam kết giải ngân vốn đầu tư cho dự án. Những yêu cầu và đặc lợi này rất đa dạng, có thể dưới dạng tiếp cận đất đai, cơ sở hạ tầng với giá thuê ưu đãi. Chúng cũng có thể dưới dạng giảm nhẹ, bỏ bớt các thủ tục hành chính, hoặc miễn giảm các loại thuế và phí. Hoặc chúng cũng có thể ở dưới dạng sự cam kết, “quyết liệt vào cuộc” của chính quyền để quá trình thực thi dự án được diễn ra hanh thông, không vấp phải những trở ngại nào đó nhiều khi dẫn đến đình trệ dự án như thường thấy ở trong những dự án phát triển hạ tầng cơ sở do các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài khác thực hiện, ví dụ như giải phóng mặt bằng, sự phản đối của dân địa phương…

Đó là chưa kể các doanh nghiệp tham gia dự án xã hội hóa còn có xu hướng đòi chính quyền cho áp dụng các loại phí thu từ sử dụng các dịch vụ của dự án khi hoàn thành ở mức cao và tăng liên tục để sớm thu hồi vốn và lãi nhanh nhất có thể, mà ví dụ điển hình là các dự án hạ tầng cơ sở có thu phí gần đâ cho thấy.

Về phía chính quyền, đáp ứng những đòi hỏi và đặc quyền này có nghĩa là thêm nhiều giờ công tiêu tốn, cũng như thất thu và thiệt hại cho ngân sách trung ương và địa phương.

Cái lợi thứ ba là các doanh nghiệp tự nhiên được dư luận biết đến rộng rãi thông qua chính quyền mà chẳng phải bỏ ra tiền tỉ để tự quảng cáo bản thân mình. Hơn thế, sự làm ăn, hợp tác với chính quyền còn mang lại cho họ một thứ tương tự như sự bảo chứng cho sản phẩm và dịch vụ của mình mà không dễ gì có thể mua được bằng tiền. Và cũng xin nhắc lại, mối lợi của doanh nghiệp là thiệt hại cho chính quyền. Thiệt hại ở đây là chi phí cơ hội cho chính quyền, khi họ quảng cáo và bảo chứng không công cho doanh nghiệp.

Và cuối cùng, không có gì ngăn cản điển hình của “mô hình xã hội hóa thành công” này không được nhân rộng ở các địa phương khác. Các doanh nghiệp trên với tư cách là doanh nghiệp tiên phong và có kinh nghiệm hợp tác với chính quyền, cũng như có tiềm lực, sẽ dễ dàng hơn trong việc loại các đối thủ tiềm năng để tiếp tục giành các hợp đồng xã hội hóa mới. Chính quyền các địa phương khác sẽ lại là những “bị hại” mới.

Tóm lại, khi doanh nghiệp bỏ ra một đồng, thông thường bao giờ họ cũng tính toán làm sao thu về được nhiều hơn một đồng. Bởi vậy, xã hội hóa nhiều khi có nghĩa là nhà nước và ngân sách còn bị mất mát và thiệt hại nhiều hơn so với không có xã hội hóa. Trên nghĩa này, xã hội hóa không bao giờ nên được viện dẫn ra như là một điểm cộng quyết định để các cơ quan có thẩm quyền dựa vào đó phê duyệt một dự án nào đó. 

Saturday 2 April 2016

Quản lý vốn vay sau khi “tốt nghiệp” ODA (Bài đăng trên TBKTSG, 2/4/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/144306/Quan-ly-von-vay-sau-khi-tot-nghiep-ODA.html

Theo Bộ Tài chính, có thể Việt Nam sẽ không còn được vay theo điều kiện ODA và chủ yếu chuyển sang sử dụng nguồn vay ưu đãi, vay theo điều kiện thị trường từ tháng 7/2017. Việt Nam sẽ phải thực hiện điều khoản trả nợ ODA nhanh gấp đôi (trả trong 15 - 20 năm thay vì trong 35 - 40 năm như trước đây), và với lãi suất lên 2% đến 3,5%/năm từ mức dưới 1%/năm như trước đây.

Tin tức trên đã gây quan ngại lớn cho dư luận, bởi bấy lâu nay ODA là một nguồn vốn chủ chốt cho các dự án phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam với các điều kiện vay ưu đãi, đã đạt mức cam kết và giải ngân lên đến nhiều chục tỷ đô la Mỹ. Nếu chuyển sang vay theo các điều kiện thị trường thì Việt Nam sẽ buộc phải vay ít đi. Trong khi đó, nhu cầu vốn đầu tư công và/hoặc vốn từ ngân sách nhà nước lại ngày một tăng nhanh và mạnh không chỉ để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước mà còn để… trả nợ công và các nghĩa vụ bảo lãnh khác của nhà nước vốn đã vượt quá mức an toàn đến mức phải đi vay để đảo nợ.
Vẫn không thể và không nên “nói không” với ODA

Đối diện với thực tại này đã có một số luồng ý kiến khác nhau. Luồng ý kiến thứ nhất cho rằng không vay được vốn ODA có khi lại tốt cho Việt Nam. Vì ODA không phải là vốn cho không, không thực sự “rẻ” như ta vẫn tưởng, nếu chỉ căn cứ vào lãi suất thấp của chúng. Các dự án ODA từ nhiều quốc gia phát triển thường kèm theo điều kiện như để các công ty từ những nước này thực hiện các dự án đó, với (phần lớn) nguyên vật liệu, máy móc thiết bị cũng do các nhà thầu từ các nước này cung cấp. Đó là chưa kể những thiệt hại khác về chính trị hoặc thất thoát do tham nhũng trong các dự án ODA.

Luồng ý kiến trên chỉ đúng một phần. Có nhiều dự án ODA của các tổ chức quốc tế đa phương như Ngân hàng Thế giới (WB) không nhất thiết phải đi kèm với điều khoản ràng buộc về nhà thầu xây dựng và cung cấp vật liệu, thiết bị cụ thể nào đó. Về ảnh hưởng chính trị, không phải tất cả các dự án ODA đều mang mục đích chính trị. Ngược lại, thậm chí ODA của nhiều nước có mục đích rõ ràng và rất nhân văn, hướng đến cộng đồng, làm cho xã hội bản địa tốt đẹp hơn. Quan trọng hơn, bản thân các nước cấp ODA cũng coi ODA là một cam kết, một nghĩa vụ hơn là một quyền lợi khi Chính phủ các nước này thường xuyên phải thuyết phục và vận động Quốc hội của họ cam kết và phê chuẩn (hạn mức) vốn ODA cấp cho các nước đang phát triển. Bởi vậy, không thể lý luận rằng các nước cấp ODA sẽ có lợi hơn là không cấp ODA về mặt kinh tế (và chính trị) nên họ mới “thích” cho vay ODA. Còn về chuyện tham nhũng, thất thoát trong các dự án ODA thì điều này rất tiếc là không chỉ xảy ra với các dự án ODA mà còn với hầu như tất cả các dự án đầu tư công, nên không thể vì lý do này để xa lánh ODA.

Trái lại, cho dù lãi suất và thời hạn vay ODA có diễn biến theo chiều bất lợi cho Việt Nam như nói trên thì, trừ viện trợ không hoàn lại, vốn ODA vẫn là nguồn vốn ưu đãi và an toàn nhất trong số các nguồn vốn mà Việt Nam có thể huy động được (vay thương mại từ các ngân hàng, tổ chức tài chính; phát hành trái phiếu Chính phủ; và vay từ ngân hàng trung ương – tức in tiền cấp cho Chính phủ chi tiêu, vốn sẽ dẫn đến lạm phát). Kể cả trong các dự án ODA từ một số nước bấy lâu nay vẫn được cho là có mầu sắc chính trị hoặc chỉ để tiêu thụ hàng hóa của họ thì thực tế vẫn là họ không hề nhiệt tình, liên tục chào mời và (chủ động) tăng hạn mức ODA hàng năm cho Việt Nam.

Cho vay lại vốn ODA cũng chưa phải là cách hữu hiệu

Luồng ý kiến thứ hai, theo chiều hướng ngược lại, thừa nhận vai trò quan trọng của vốn ODA, và tập trung vào chuyện làm thế nào để sử dụng vốn ODA hiệu quả hơn. Theo đó, thay vì cơ chế trung ương cấp phát vốn ODA cho các địa phương như hiện nay, cần phải chuyển sang cơ chế trung ương cho địa phương vay lại vốn ODA. Điều này được cho là sẽ buộc các địa phương phải tính toán cẩn trọng hơn tính hiệu quả của các dự án sử dụng vốn ODA vì họ sẽ phải hoàn trả vốn ODA vay từ trung ương, chứ không còn được “cho không”, cấp phát như trước nữa. Đặc biệt, cũng có ý kiến đề xuất thêm là các dự án này phải được Hội đồng nhân dân (HĐND) địa phương thông qua, để đảm bảo rằng dự án đó thực sự mang lại hiệu quả, thực sự cần thiết, phù hợp với đời sống nhân dân địa phương.

Việc hủy bỏ cơ chế cấp phát (hoàn toàn) vốn ODA như trong luồng ý kiến nói trên là điều cần thiết, vì dưới cơ chế cấp phát cả nơi duyệt và cấp phát lẫn nơi nhận cấp phát đều không có động cơ sử dụng vốn ODA như với tiền túi của mình bỏ ra. Tuy vậy, cơ chế cho vay lại, kể cả kết hợp với phê chuẩn của HĐND địa phương cũng sẽ không hữu hiệu hơn.

Với đặc tính nhiệm kỳ của những vị trí có trách nhiệm trong việc duyệt phân bổ và sử dụng vốn ODA (hay bất cứ nguồn vốn ngân sách công nào), người ta vẫn sẽ cứ dễ dàng trình, duyệt và sử dụng vốn ODA kể cả đã chuyển sang hình thức vay mượn, vì thường mọi việc chỉ “vỡ lở” một vài năm sau khi những người có trách nhiệm này đã yên ổn ở một vị trí mới, và những người kế nhiệm có giải quyết (được) những hậu quả của họ hay không là điều không mấy liên quan đến họ nữa.

Kể cả khi HĐND có tham gia vào quá trình trình và duyệt dự án sử dụng ODA thì cũng sẽ chẳng có gì đảm bảo HĐND không phải là “cùng một phe” với các bên đương sự, ít nhất là do chính tính nhiệm kỳ và tính địa phương của HĐND (xây, xin, lấy được cái gì là tốt cái đó).

Trên hết, dù có phải vay mượn và cam kết hoàn trả vốn ODA cho trung ương, các địa phương vẫn có động cơ và sẵn sàng vay mượn với bất cứ điều kiện nào, vì họ nhận thức rằng, biết rằng, trong trường hợp xấu nhất – không có tiền để trả nợ - trung ương cũng sẽ phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” vì không thể “đè đầu” ai ra (ở địa phương) để bắt trả nợ thay, hoặc bắt chính quyền địa phương phải phá sản, phát mãi tài sản, đóng cửa hoạt động như trong các trường hợp mất khả năng thanh toán thương mại và dân sự khác.

Phải cho các ngân hàng thương mại “vào cuộc”

Để khắc phục phần nào những hạn chế trong cơ chế cho vay lại nói trên, cần thiết phải có sự tham gia của các ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy Bộ Tài chính có đề cập đến vai trò của NHTM trong một cơ chế quản lý vốn ODA mới “đang dần được thực hiện”, nhưng mới chỉ có rất ít thông tin về chuyện này, ví dụ, “các NHTM được tiếp cận dự án ngay từ ban đầu”, và “quyền của các NHTM đang được nâng tầm”.

Bài viết này muốn đề xuất một cách tiếp cận mới cho sự tham gia của các NHTM. Theo đó, Chính phủ cam kết và giải ngân cho NHTM từ nguồn vốn ODA (hay các nguồn từ ngân sách khác) dựa trên các khoản cho vay và giải ngân của NHTM cho các địa phương và các chủ dự án (kể cả ở cấp trung ương) sử dụng vốn ngân sách. Cách làm này gần tương tự như cách làm trong gói cho vay hỗ trợ lãi suất 30.000 tỷ để thuê, mua nhà xã hội, nhà giá rẻ hiện nay.

Cụ thể hơn, giả sử Chính phủ vay vốn ODA từ WB với lãi suất 2%/năm. Chính phủ sẽ cho vay địa phương A để triển khai dự án B với số vốn X tỷ đồng và lãi suất Y% nào đó (tùy theo tính chất của dự án) trong thời gian 15 năm. Trong cơ chế mới với sự tham gia của ngân hàng C (ngay từ bước đầu xây dựng dự án), Chính phủ cam kết sẽ giải ngân cho ngân hàng C số tiền mà họ đã giải ngân cho dự án cộng thêm một biên độ lợi nhuận cố định và thỏa đáng, với điều kiện ngân hàng C đã thu đúng và đủ tiền gốc và lãi từ dự án theo đúng tiến độ trả nợ trong hợp đồng tín dụng họ ký với địa phương A. Như vậy, ngân hàng C sẽ phải có trách nhiệm thay mặt Chính phủ từ tính toán hiệu quả của dự án, giám sát thực thi, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh, đến ràng buộc trách nhiệm của chủ dự án trong việc trả nợ gốc và lãi vay theo tiến độ v.v… Vì trách nhiệm của ngân hàng C liên quan trực tiếp đến lợi nhuận của họ nên chắc chắn họ sẽ theo sát hơn dự án từ khi thiết kế đến thực thi và vận hành (ít nhất là hơn là các quan chức Chính phủ trung ương và địa phương!).

Tất nhiên là cách làm trên vẫn sẽ có một số hạn chế như khả năng ngân hàng C thông đồng với chủ đầu tư để Chính phủ tiếp tục giải ngân cho dự án trong khi dự án thì đã chết yểu hoặc lay lắt, bỏ dở… Nhưng khả năng này sẽ bị hạn chế bởi công tác thanh tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng như Ngân hàng Nhà nước, các công ty kiểm toán, và dù sao sẽ vẫn dễ hơn cho Chính phủ khi chỉ phải thanh tra và xử lý ngân hàng C thay vì thanh tra và xử lý hàng loạt các (chủ) dự án riêng lẻ trên cả nước.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).