Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đây đã ban hành Thông tư 06/2016/TT-NHNN để thay thế Thông tư 36 sau một thời gian lấy ý kiến phản hồi cho bản dự thảo sửa đổi Thông tư 36. Nội dung của Thông tư 06 có 2 điều chỉnh lớn khác với dự thảo. Thứ nhất, quy định hệ số quy đổi rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản là 200% từ thời điểm 1/1/2017, thay vì 250% như trong dự thảo. Thứ hai, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn được giảm theo lộ trình từ 60% xuống 50% từ 1/1/2017 và 40% từ 1/1/2018, thay vì giảm ngay như trong dự thảo.
Có
thể nói ngay rằng những sửa đổi trên là một hành động tích cực “lắng nghe” phản
biện của thị trường của NHNN, vì lập trường ban đầu của NHNN khi đưa ra dự thảo
sửa đổi Thông tư 36 tỏ ra rất quyết liệt, cứng rắn trong các luận điểm của mình
để bảo vệ các nội dung dự thảo sửa đổi Thông tư 36.
Tuy
vậy, hành động “lắng nghe” thị trường nói trên lại cho thấy rủi ro mà NHNN đang
phải đối mặt. Do vẫn còn mang tính đối phó, và dễ bị “lung lạc” bởi thị trường
nên cũng như một số quy định khác của NHNN, Thông tư này dễ có nguy cơ phải
thay đổi, trì hoãn áp dụng sau khi được ban hành.
Nhìn
lại bối cảnh của dự thảo sửa đổi Thông tư 36. Xuất phát điểm của dự thảo sửa
đổi là lo ngại nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng nóng với nguồn vốn
tín dụng ngân hàng đổ dồn vào khu vực bất động sản, và một tỷ trọng lớn của
nguồn vốn tín dụng này lại có nguồn gốc từ huy động tiền gửi ngắn hạn. Trong
quan điểm của mình, có thể NHNN thấy cần phải đối phó từ sớm với lo ngại này
dựa trên kinh nghiệm những gì đã xảy ra trước đây. Do đó, hệ số quy đổi rủi ro
của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản được đề xuất nâng mạnh lên
250% từ mức 150% và tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm mạnh xuống
40% từ 60% như trong Thông tư 36.
Nhưng
như đã được chỉ ra, thay vì đưa ra những mục tiêu mang tính đơn lẻ như siết tín
dụng chỉ riêng vào lĩnh vực bất động sản, NHNN lẽ ra phải đưa ra những mục tiêu
mang tính tổng quát như siết tín dụng vào những lĩnh vực, ngành nghề mang tính
đầu cơ cao, nhiều rủi ro dẫn đến sự trồi sụt của nền kinh tế. Những mục tiêu
này có thể đạt được bằng cách thắt chặt các quy định an toàn về hoạt động tín
dụng như tỷ lệ nợ xấu được phép, tỷ lệ vốn an toàn tối
thiểu, và tỷ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, và thậm chí là chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế hay riêng cho từng TCTD. Nếu làm tốt
được việc này thì NHNN không bị sa vào chuyện điều tiết một cách quá vi mô nền
kinh tế, cản trở một cách không đáng có sự tăng trưởng lành mạnh của một ngành
nào đó (trong trường hợp này là ngành bất động sản, khi tất cả các bên liên
quan đều cho rằng nó vẫn đang phát triển lành mạnh, chưa có nguy cơ tăng trưởng
quá nóng), mà vẫn đồng thời ngăn ngừa được khả năng tăng trưởng nóng của một
ngành nào đó chưa lộ diện rõ rang.
Trở lại với quy định tỷ lệ 200% thay vì 250% như đề xuất
ban đầu trong lĩnh vực bất động sản nói trên. Có thể nói đây là kết quả chủ yếu
của việc “thỏa hiệp” trước phản đối mạnh mẽ của thị trường. Nên cũng dễ hình
dung rằng NHNN sẽ phải một lần nữa trong tương lai không xa đưa ra những sửa đổi
hay trì hoãn áp dụng tỷ lệ này khi thị trường bất động sản có dấu hiệu đuối sức
hay nền kinh tế chật vật tăng trưởng trong khi tín dụng không thể đẩy lên được.
Cũng cần nhớ lại rằng tỷ lệ này đã được thay đổi đột ngột vài lần và trong một
thời gian không quá dài, như trong Thông tư 36 và những thông tư trước đó.
Chưa hết, với những diễn biến nhanh chóng của nền kinh tế
nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng trong mấy tháng qua, Thông tư 06 của
NHNN lại đang phải đối mặt thêm với khả năng lạc nhịp.
Như đã nói, bối cảnh đưa ra dự thảo sửa đổi Thông tư 36
là khả năng tăng trưởng nóng của bất động sản, là rủi ro tăng cao khi tín dụng
tăng trưởng mạnh nhưng lại dựa nhiều vào vốn huy động ngắn hạn. Nhưng hiện tại,
tăng trưởng tín dụng nói chung đang có dấu hiệu chững lại trong tháng 5, trong
khi tăng trưởng tín dụng cho bất động sản vẫn ở mức bình thường (chẳng hạn,
theo NHNN Thành phố Hồ Chí Minh, tín dụng bất động sản chiếm tỷ lệ 12,7% trong
tổng dư nợ trên địa bàn, trong khi tín dụng chung tăng trưởng 17,2% trong 4
tháng đầu năm so cùng kỳ năm trước). Điều này cho thấy khả năng NHNN sắp tới sẽ
phải tìm cách “thúc” tăng trưởng tín dụng hơn nữa, mà một trong những cách hữu hiệu
nhất là thông qua đẩy mạnh vốn vào bất động sản. Nhưng nếu theo hướng này thì
NHNN lại phải tìm cách nới lỏng tỷ lệ 200% nói trên hay phải trì hoãn áp dụng tỷ
lệ này khi nó vừa mới được áp dung.
Ngoài ra, tuy người viết vẫn ủng hộ việc siết tỷ lệ sử dụng
vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn như là một phương pháp giảm thiểu rủi ro
chung cho hệ thống ngân hàng, nhưng điều NHNN cần làm là phải xác định rõ cơ sở
tại sao lại đưa ra quy định là 40% hay 50% mà không phải là một mức nào khác, kể
cả 60% như hiện tại (lưu ý lại rằng mức này cũng vừa thay đổi trước đây không
lâu)? Và quy định này có là nhất quán trong trung và dài hạn hay chỉ là một phản
ứng nhất thời của NHNN?
Nếu chỉ là một phản ứng nhất thời, theo hướng thỏa hiệp với
sự phản đối của thị trường thì, tương tự như trên, rất có khả năng NHNN lại phải
thay đổi hoặc trì hoãn áp dụng tỷ lệ 50% vừa mới quy định trong Thông tư 06
ngay trong từ đầu năm 2017 khi tăng trưởng tín dụng tiếp tục xu hướng giảm nhịp
như hiện tại, dẫn đến tăng trưởng cả năm chậm hơn dự kiến, kéo giảm tăng trưởng
GDP.
Tóm lại, rất có thể NHNN sẽ phải thay đổi, điều chỉnh hoặc
trì hoãn áp dụng một số nội dung trong Thông tư 06 vừa mới ban hành thay cho
Thông tư 36 trong tương lai gần khi tình hình diễn ra khác với bối cảnh khi xây
dựng thông tư này. Bài học rút ra ở đây là NHNN cần phải nâng cao chất lượng hoạch
định chính sách, với tầm nhìn dài hạn, nhất quán, và tiên liệu được nhằm đảm bảo
cho thị trường vận hành thông suốt.
No comments:
Post a Comment