Friday 17 June 2016

Thị trường mua bán nợ xấu cần nhiều hàng hóa “sạch”(Bài đăng trên TBKTSG, 18/6/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/147742/Thi-truong-mua-ban-no-xau-can-nhieu-hang-hoa-sach.html

Hồi tháng 2 năm nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra công luận lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo nghị định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ tập trung tại Việt Nam. Theo giải thích của NHNN, thị trường mua bán nợ tập trung này sẽ gồm các hoạt động: mua bán nợ; dịch vụ môi giới mua bán nợ; dịch vụ sàn giao dịch nợ; và dịch vụ tư vấn mua bán nợ.

Tuy nhiên, dự thảo nghị định trên quy định đối tượng, điều kiện được tham gia, và nguyên tắc và phương thức kinh doanh dịch vụ mua bán nợ. Nói cách khác, dự thảo nghị định này mới chỉ đề cập đến các chủ thể trên thị trường mua bán nợ. Các vấn đề quan trọng khác đảm bảo cho sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ tập trung vẫn hầu như chưa được đề cập đến (một cách thỏa đáng) ở các văn bản luật và dự thảo hiện hành. Bài viết này tập trung vào khía cạnh hàng hóa, là các khoản nợ xấu từ các tổ chức tín dụng (TCTD) được mang ra giao dịch trên thị trường mua bán nợ.

Phải có nhiều hàng hóa

Để thị trường mua bán nợ tập trung hình thành và phát triển thì trước hết phải đảm bảo nguồn cung hàng hóa, tức các món nợ xấu, không bị gián đoạn hoặc bị nghẽn mạch tại một thời điểm nào đó do một lý do chủ quan nào đó.

Cụ thể hơn, thị trường mua bán nợ sẽ phát triển lành mạnh khi có hàng hóa đa dạng, ở quy mô đủ lớn, rõ ràng về nguồn gốc cũng như minh bạch về nội dung, hấp dẫn người mua tiềm năng. Bởi vậy, các cơ quan chức năng cần thắt chặt hơn nữa quy định về trích lập dự phòng nợ xấu để khuyến khích hoặc ép buộc các TCTD phải tích cực và nhanh chóng đưa nợ xấu ra xử lý, gồm bán trên thị trường mua bán nợ.

Thực tế ở Việt Nam đã và đang xảy ra điều ngược lại, khi các TCTD vẫn nhiều khi được phép áp dụng một số quy định nới lỏng về trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu nên quá trình xử lý nợ xấu đã diễn ra rất chậm chạp, không mấy tiến triển.
Dự thảo nghị định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ mới chỉ đề cập đến các chủ thể trên thị trường mua bán nợ. Hàng hóa, là các khoản nợ xấu từ các TCTD được mang ra giao dịch trên thị trường mua bán nợ, chưa được đề cập thỏa đáng.
Có nhiều doanh nghiệp đã “chết lâm sàng” nhưng vẫn được Chính phủ, cổ đông, hoặc bản thân ngân hàng chủ nợ giữ cho tồn tại trên sổ sách để che giấu nợ xấu hoặc vì một mục đích nào đó. Kết cục là một khối lượng nợ xấu vẫn được “giam” ở doanh nghiệp này, không thể giải phóng ra thị trường được. Nhiều khi, vì doanh nghiệp chưa phá sản nên việc xử lý nợ xấu giậm chân tại chỗ, vướng mắc đủ bề, cho dù các ngân hàng có chủ động, quyết tâm thanh lý các khoản nợ xấu này như thế nào chăng nữa.

Do đó, các cơ quan chức năng cần thắt chặt các quy định và tiêu chí để giúp ngân hàng xác định rõ đâu là doanh nghiệp có khả năng sống sót và trả được nợ, doanh nghiệp nào chắc chắn không thể phục hồi, và tiến hành thanh lý khoản nợ với doanh nghiệp này. Quy chế cũng cần cho phép các ngân hàng khấu trừ chi phí thanh lý nợ xấu này vào khoản thu từ thanh lý nợ xấu để khuyến khích ngân hàng giải phóng nợ xấu và mở rộng cho vay mới. Song song đó, cần cho phép hoặc nâng mức trần khấu trừ chi phí dự phòng rủi ro vào lợi nhuận trước thuế của các TCTD ngay trong cùng năm tài chính để khuyến khích họ tăng cường trích lập dự phòng nợ xấu, nhất là trong những thời điểm chững lại của nền kinh tế (và hoàn nhập trích lập dự phòng vào những thời điểm thuận lợi của nền kinh tế).

Các cơ quan quản lý nhà nước có các khoản nợ phải đòi với các doanh nghiệp con nợ mất khả năng thanh toán cũng cần phải tham gia vào quá trình tái cơ cấu nợ qua hoặc không qua tòa án với cương vị bình đẳng như với các chủ nợ phi nhà nước khác. Điều này sẽ khuyến khích tất cả các bên nỗ lực xử lý nợ xấu một cách có trật tự hơn.

Hàng hóa cần phải “sạch”

“Sạch” ở đây có nghĩa là không còn chịu rủi ro tranh chấp pháp lý giữa chủ nợ với con nợ, giữa các chủ nợ với nhau, giữa chủ nợ với một bên thứ ba nào đó, hoặc giữa tất cả các bên liên quan. Cái “sạch” này có thể là kết quả phán xét của hệ thống tòa án. Nhưng xử lý nợ xấu thông qua tòa án thường tốn kém và rất mất thời gian. Bởi vậy, để đảm bảo đưa ra thị trường mua bán nợ các sản phẩm “sạch” thì cần cải cách để giảm thiểu các rào cản cũng như thời gian tiến hành tố tụng dân sự, đưa ra quy trình giải quyết nhanh và thúc đẩy việc tự thương lượng không qua tòa án, tăng cường tính tin cậy của tòa án. Việc giảm thiểu gánh nặng lệ phí tố tụng và đẩy nhanh tiến độ thu hồi tài sản cầm cố, thế chấp cũng là việc cần làm. Ví dụ, trong một số trường hợp nhất định có thể cho phép cơ quan chức năng tiến hành thanh lý tài sản mà không cần phải có phán quyết tòa án.

Để giảm bớt gánh nặng cho hệ thống tòa án, cần tăng cường sử dụng việc tái cơ cấu nợ không qua tòa án. Những hướng dẫn thích hợp về tái cơ cấu nợ của cơ quan chức năng sẽ khuyến khích các ngân hàng hơn nữa trong việc xử lý nợ xấu không qua tòa án. Chính phủ cũng cần thiết lập một cơ chế làm việc để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa các chủ nợ, ví dụ vấn đề chủ nợ bất hợp tác. Trong trường hợp này, Chính phủ có thể yêu cầu các ngân hàng ký vào thỏa thuận hợp tác và thiện chí giải quyết những bất đồng hay thiết lập hội đồng chủ nợ có vị thế pháp lý.

Chứng khoán hóa nợ xấu

Chứng khoán hóa nợ xấu có chất lượng (tức có khả năng thu hồi cao hơn các món nợ xấu khác) cũng là một cách giúp các TCTD giải thoát được nợ xấu. Tuy nhiên, để việc chứng khoán hóa thành công thì cần buộc các công ty quản lý tài sản (AMC) hoặc các tổ chức xử lý nợ xấu thu thập và công bố dữ liệu về từng khoản nợ xấu hợp thành trong “rổ” nợ xấu được chứng khoán hóa để nhà đầu tư có thể tiếp cận bất cứ lúc nào, từ đó có thể định giá được chính xác và, nhờ đó, đưa ra được quyết định đầu tư kịp thời.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).