Hồi tháng 2 năm nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra công luận lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo nghị định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ tập trung tại Việt Nam. Theo giải thích của NHNN, thị trường mua bán nợ tập trung này sẽ gồm các hoạt động: mua bán nợ; dịch vụ môi giới mua bán nợ; dịch vụ sàn giao dịch nợ; và dịch vụ tư vấn mua bán nợ.
Tuy nhiên, dự thảo nghị định trên quy định đối tượng, điều kiện được tham gia, và nguyên tắc và phương thức kinh doanh dịch vụ mua bán nợ. Nói cách khác, dự thảo nghị định này mới chỉ đề cập đến các chủ thể trên thị trường mua bán nợ. Các vấn đề quan trọng khác đảm bảo cho sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ tập trung vẫn hầu như chưa được đề cập đến (một cách thỏa đáng) ở các văn bản luật và dự thảo hiện hành. Bài viết này tập trung vào khía cạnh hàng hóa, là các khoản nợ xấu từ các tổ chức tín dụng (TCTD) được mang ra giao dịch trên thị trường mua bán nợ.
Phải có nhiều hàng hóa
Cụ thể hơn, thị trường mua bán nợ sẽ phát triển lành mạnh khi có hàng hóa đa dạng, ở quy mô đủ lớn, rõ ràng về nguồn gốc cũng như minh bạch về nội dung, hấp dẫn người mua tiềm năng. Bởi vậy, các cơ quan chức năng cần thắt chặt hơn nữa quy định về trích lập dự phòng nợ xấu để khuyến khích hoặc ép buộc các TCTD phải tích cực và nhanh chóng đưa nợ xấu ra xử lý, gồm bán trên thị trường mua bán nợ.
Thực tế ở Việt Nam đã và đang xảy ra điều ngược lại, khi các TCTD vẫn nhiều khi được phép áp dụng một số quy định nới lỏng về trích lập dự phòng và xử lý nợ xấu nên quá trình xử lý nợ xấu đã diễn ra rất chậm chạp, không mấy tiến triển.
Dự thảo nghị định về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ mới chỉ đề cập đến các chủ thể trên thị trường mua bán nợ. Hàng hóa, là các khoản nợ xấu từ các TCTD được mang ra giao dịch trên thị trường mua bán nợ, chưa được đề cập thỏa đáng. |
Do đó, các cơ quan chức năng cần thắt chặt các quy định và tiêu chí để giúp ngân hàng xác định rõ đâu là doanh nghiệp có khả năng sống sót và trả được nợ, doanh nghiệp nào chắc chắn không thể phục hồi, và tiến hành thanh lý khoản nợ với doanh nghiệp này. Quy chế cũng cần cho phép các ngân hàng khấu trừ chi phí thanh lý nợ xấu này vào khoản thu từ thanh lý nợ xấu để khuyến khích ngân hàng giải phóng nợ xấu và mở rộng cho vay mới. Song song đó, cần cho phép hoặc nâng mức trần khấu trừ chi phí dự phòng rủi ro vào lợi nhuận trước thuế của các TCTD ngay trong cùng năm tài chính để khuyến khích họ tăng cường trích lập dự phòng nợ xấu, nhất là trong những thời điểm chững lại của nền kinh tế (và hoàn nhập trích lập dự phòng vào những thời điểm thuận lợi của nền kinh tế).
Các cơ quan quản lý nhà nước có các khoản nợ phải đòi với các doanh nghiệp con nợ mất khả năng thanh toán cũng cần phải tham gia vào quá trình tái cơ cấu nợ qua hoặc không qua tòa án với cương vị bình đẳng như với các chủ nợ phi nhà nước khác. Điều này sẽ khuyến khích tất cả các bên nỗ lực xử lý nợ xấu một cách có trật tự hơn.
Hàng hóa cần phải “sạch”
Để giảm bớt gánh nặng cho hệ thống tòa án, cần tăng cường sử dụng việc tái cơ cấu nợ không qua tòa án. Những hướng dẫn thích hợp về tái cơ cấu nợ của cơ quan chức năng sẽ khuyến khích các ngân hàng hơn nữa trong việc xử lý nợ xấu không qua tòa án. Chính phủ cũng cần thiết lập một cơ chế làm việc để giải quyết các vấn đề phát sinh giữa các chủ nợ, ví dụ vấn đề chủ nợ bất hợp tác. Trong trường hợp này, Chính phủ có thể yêu cầu các ngân hàng ký vào thỏa thuận hợp tác và thiện chí giải quyết những bất đồng hay thiết lập hội đồng chủ nợ có vị thế pháp lý.
Chứng khoán hóa nợ xấu
No comments:
Post a Comment