Friday 3 June 2016

Thông điệp nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước (Bài đăng trên TBKTSG, 3/6/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/147193/Thong-diep-noi-long-cua-Ngan-hang-Nha-nuoc.html

Ngày 27/5/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành liền hai thông tư quan trọng, được thị trường đón đợi từ mấy tháng nay. Đó là Thông tư 06/2016/TT-NHNN để thay thế Thông tư 36 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và Thông tư 07/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN quy định hoạt động cho vay bằng ngoại tệ.

Thông tư 06 quy định hệ số quy đổi rủi ro của các khoản phải đòi để kinh doanh bất động sản là 200% từ thời điểm 1/1/2017, thay vì 250% như trong dự thảo trước đây. Đồng thời, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn được giảm theo lộ trình từ 60% xuống 50% từ 1/1/2017 và 40% từ 1/1/2018, thay vì giảm ngay như trong dự thảo của thông tư này.

Thông tư 07 cho phép vay ngoại tệ trở lại với một nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu, sau khi cơ chế đã khép lại từ ngày 1/4 vừa qua. Cụ thể hơn, Thông tư 07 cho phép tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối cho khách hàng là người cư trú vay vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu vốn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay.

Đều theo hướng nới lỏng hơn…

Có thể thấy là cả 2 thông tư trên đều đã được soạn thảo và/hoặc sửa đổi theo kiến nghị và đòi hỏi của thị trường. Với Thông tư 06, như nói ở trên, nội dung đã có sự nhượng bộ đáng kể với đòi hỏi của thị trường so với nội dung ban đầu trong bản dự thảo. Trong khi đó, Thông tư 07 thì đáp ứng đòi hỏi được vay ngoại tệ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa xuất khẩu vốn đã bị NHNN cấm từ 1/4 năm nay như trong Thông tư 24/2015. Nói cách khác, cả 2 thông tư trên đều theo hướng nới lỏng hơn, bớt “làm khó” ngân hàng và doanh nghiệp hơn so với dự định ban đầu (Thông tư 06) hoặc quy định trước đây (Thông tư 07).

Đặt cả 2 thông tư này trong bối cảnh hiện tại, có cơ sở để cho rằng NHNN lại nới lỏng chính sách tiền tệ của mình như một phản ứng chính sách theo yêu cầu tháo gỡ khó khăn thúc đẩy sản xuất kinh doanh của Chính phủ mới đây.

… Một cách có chọn lọc

Lãi suất hiện vẫn đứng ở mức cao mặc dù NHNN đã chính thức hoặc ngầm định nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua việc mua nhiều tỉ USD trong mấy tháng đầu năm nay mà không tiến hành trung hòa toàn bộ lượng tiền đồng đối ứng tung ra, dẫn đến tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán đã có tốc độ tăng trưởng mạnh trong mấy tháng gần đây so với năm trước. Hành động cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ được vay ngoại tệ trở lại là một cách thức nới lỏng tiền tệ gián tiếp bằng cách trợ cấp lãi suất cho các doanh nghiệp này (các doanh nghiệp vay được ngoại tệ phải bán lại ngay cho ngân hàng để lấy tiền đồng nhưng với lãi suất vay USD thấp hơn lãi suất tiền đồng).

Cách trợ cấp lãi suất có chọn lọc nói trên có thể là một cách khôn ngoan khi tránh được rủi ro trợ cấp lãi suất “đại trà” cho cả nền kinh tế bằng cách tiếp tục mua USD trên quy mô lớn và tung ra tiền đồng nhằm hạ lãi suất chung. Vì cách này tạo rủi ro lớn lên lạm phát, vốn đã tăng liên tục suốt 8 tháng kể từ quý 4 năm trước. Cách trợ cấp có chọn lọc này cũng tránh gây tác động mạnh đến tỷ giá khi đã xuất hiện tín hiệu căng thẳng gần đây.

Bên cạnh đó, bất chấp cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) đã tăng mạnh, tăng trưởng tín dụng tháng 5 đã chậm lại đáng kể so với tháng 4 vì một lý do nào đó, có thể là do nợ xấu gia tăng trở lại, hoặc do nhu cầu lưu trữ vốn của các ngân hàng để đáp ứng mục tiêu nào đó. Nên việc NHNN cho phép các ngân hàng cho vay ngoại tệ lại với các doanh nghiệp xuất khẩu, cũng như chỉ thắt lại có chừng mực các giới hạn và tỷ lệ an toàn (thay vì ở mức khắt khe như dự định ban đầu) có thể được coi là một phản ứng chính sách cần thiết của NHNN trước đòi hỏi của thị trường nhằm hạ bớt các rào cản khơi thông dòng chảy tín dụng ngân hàng vào nền kinh tế, đảm bảo tốc độ tăng trưởng tín dụng khả quan trong khi không phải bơm tiền quá mạnh ra nền kinh tế.

Nhưng cần cẩn trọng với tác dụng phụ

Những sửa đổi trong 2 thông tư nói trên là kết quả của việc NHNN tiếp thu các phản biện từ thị trường, mặc dù trước đó NHNN đã tỏ ra rất quyết liệt, rất có lý trong các luận điểm để bảo vệ các chính sách trước đây của mình. Tuy vậy, hành động “lắng nghe” thị trường này lại cho thấy chất lượng làm chính sách của NHNN còn nhiều bất cập. Hành động này cũng cho thấy các chính sách của NHNN có thể dễ bị thay đổi trước áp lực đòi hỏi của các chủ thể liên đới. Điều này không chỉ tạo tiền lệ xấu trong việc hoạch định chính sách trong tương lai của NHNN mà còn làm giảm lòng tin vào tính hữu hiệu và tính định hướng của các chính sách của NHNN.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).