Ngày 27/5/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành liền hai thông tư quan trọng, được thị trường đón đợi từ mấy tháng nay. Đó là Thông tư 06/2016/TT-NHNN để thay thế Thông tư 36 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và Thông tư 07/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN quy định hoạt động cho vay bằng ngoại tệ.
Thông tư 06 quy định hệ số quy đổi rủi ro của các khoản phải
đòi để kinh doanh bất động sản là 200% từ thời điểm 1/1/2017, thay vì 250% như
trong dự thảo trước đây. Đồng thời, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung
dài hạn được giảm theo lộ trình từ 60% xuống 50% từ 1/1/2017 và 40% từ
1/1/2018, thay vì giảm ngay như trong dự thảo của thông tư này.
Thông
tư 07 cho phép vay ngoại tệ trở lại với một nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu, sau khi cơ chế đã khép lại
từ ngày 1/4 vừa qua. Cụ thể hơn, Thông tư 07 cho phép tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối cho khách hàng là người
cư trú vay vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu vốn ở trong nước
nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu
biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để
trả nợ vay.
Đều
theo hướng nới lỏng hơn…
Có thể thấy là cả 2 thông tư trên đều đã được soạn thảo
và/hoặc sửa đổi theo kiến nghị và đòi hỏi của thị trường. Với Thông tư 06, như
nói ở trên, nội dung đã có sự nhượng bộ đáng kể với đòi hỏi của thị trường so với
nội dung ban đầu trong bản dự thảo. Trong khi đó, Thông tư 07 thì đáp ứng đòi hỏi
được vay ngoại tệ của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa xuất khẩu vốn
đã bị NHNN cấm từ 1/4 năm nay như trong Thông tư 24/2015. Nói cách khác, cả 2
thông tư trên đều theo hướng nới lỏng hơn, bớt “làm khó” ngân hàng và doanh
nghiệp hơn so với dự định ban đầu (Thông tư 06) hoặc quy định trước đây (Thông
tư 07).
Đặt cả 2 thông tư này trong bối cảnh hiện tại, có cơ sở để
cho rằng NHNN lại nới lỏng chính sách tiền tệ của mình như một phản ứng chính
sách theo yêu cầu tháo gỡ khó khăn thúc đẩy sản xuất kinh doanh của Chính phủ mới
đây.
… Một
cách có chọn lọc
Lãi suất hiện vẫn đứng ở mức cao mặc dù NHNN đã chính thức
hoặc ngầm định nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua việc mua nhiều tỉ USD
trong mấy tháng đầu năm nay mà không tiến hành trung hòa toàn bộ lượng tiền đồng
đối ứng tung ra, dẫn đến tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán đã có tốc độ
tăng trưởng mạnh trong mấy tháng gần đây so với năm trước. Hành động cho phép
các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ được vay ngoại tệ trở lại là một
cách thức nới lỏng tiền tệ gián tiếp bằng cách trợ cấp lãi suất cho các doanh
nghiệp này (các doanh nghiệp vay được ngoại tệ phải bán lại ngay cho ngân hàng
để lấy tiền đồng nhưng với lãi suất vay USD thấp hơn lãi suất tiền đồng).
Cách trợ cấp lãi suất có chọn lọc nói trên có thể là một
cách khôn ngoan khi tránh được rủi ro trợ cấp lãi suất “đại trà” cho cả nền
kinh tế bằng cách tiếp tục mua USD trên quy mô lớn và tung ra tiền đồng nhằm hạ
lãi suất chung. Vì cách này tạo rủi ro lớn lên lạm phát, vốn đã tăng liên tục
suốt 8 tháng kể từ quý 4 năm trước. Cách trợ cấp có chọn lọc này cũng tránh gây
tác động mạnh đến tỷ giá khi đã xuất hiện tín hiệu căng thẳng gần đây.
Bên cạnh đó, bất chấp cung tiền (tổng phương tiện thanh
toán) đã tăng mạnh, tăng trưởng tín dụng tháng 5 đã chậm lại đáng kể so với
tháng 4 vì một lý do nào đó, có thể là do nợ xấu gia tăng trở lại, hoặc do nhu
cầu lưu trữ vốn của các ngân hàng để đáp ứng mục tiêu nào đó. Nên việc NHNN cho
phép các ngân hàng cho vay ngoại tệ lại với các doanh nghiệp xuất khẩu, cũng
như chỉ thắt lại có chừng mực các giới hạn và tỷ lệ an toàn (thay vì ở mức khắt
khe như dự định ban đầu) có thể được coi là một phản ứng chính sách cần thiết của
NHNN trước đòi hỏi của thị trường nhằm hạ bớt các rào cản khơi thông dòng chảy
tín dụng ngân hàng vào nền kinh tế, đảm bảo tốc độ tăng trưởng tín dụng khả
quan trong khi không phải bơm tiền quá mạnh ra nền kinh tế.
Nhưng cần
cẩn trọng với tác dụng phụ
Những
sửa đổi trong 2 thông tư nói trên là kết quả của việc NHNN tiếp thu các phản
biện từ thị trường, mặc dù trước đó NHNN đã tỏ ra rất quyết liệt, rất có lý
trong các luận điểm để bảo vệ các chính sách trước đây của mình. Tuy vậy, hành
động “lắng nghe” thị trường này lại cho thấy chất lượng làm chính sách của NHNN
còn nhiều bất cập. Hành động này cũng cho thấy các chính sách của NHNN có thể dễ
bị thay đổi trước áp lực đòi hỏi của các chủ thể liên đới. Điều này không chỉ
tạo tiền lệ xấu trong việc hoạch định chính sách trong tương lai của NHNN mà
còn làm giảm lòng tin vào tính hữu hiệu và tính định hướng của các chính sách
của NHNN.
No comments:
Post a Comment