Thông tư 06/2016 ban hành tuần trước điều chỉnh tăng tăng tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn của chi nhánh ngân hàng nước ngoài (từ 15% lên 35%), ngân hàng thương mại nhà nước (từ 15% lên 25%). Tỷ lệ này cho các loại hình tổ chức tín dụng khác được giữ nguyên (ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài 35%; tổ chức tín dụng phi ngân hàng 5%; ngân hàng hợp tác xã 35%).
Lý do điều chỉnh
Lý do của sự điều chỉnh trên có cả ở phía Chính phủ lẫn phía ngân hàng
thương mại. Về phía Chính phủ, không ít lần có lời phàn nàn rằng các ngân hàng
thương mại là đối tượng chính mua trái phiếu Chính phủ, được thể hiện qua con
số tới 80% trái phiếu Chính phủ được mua bởi ngân hàng thương mại. Nhưng Thông
tư 36/2014 của NHNN đã thắt chặt việc đầu tư trái phiếu
Chính phủ của giới ngân hàng, khi đưa ra mức khống chế tỷ lệ tham gia mua trái
phiếu chỉ bằng 15-35% vốn ngắn hạn, tùy thuộc loại hình ngân hàng thương mại. Nên không ít lần NHNN đã được khuyến nghị
điều chỉnh tăng tỷ lệ này lên để các ngân hàng tăng cường mua thêm trái phiếu
Chính phủ, góp phần giảm áp lực thâm hụt ngân sách.
Vê phía các ngân hàng thương mại, một số ý kiến nêu rằng Thông tư 36 quy định tỷ lệ tối đa so với nguồn vốn ngắn
hạn mà chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại được mua, đầu tư
trái phiếu Chính phủ là 15% và 35% là không phù hợp với quy định theo Basel II
và III về các chuẩn mực an toàn theo đó các ngân hàng có thể nắm giữ một lượng
lớn trái phiếu Chính phủ nhiều nhất có thể. Ngoài ra, cũng có ý kiến yêu cầu đối
xử công bằng khi áp giới hạn trên đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, như
một điểm cần có để khuyến khích các thành phần tham gia phát triển thị trường
nợ của Việt Nam, trong đó có trái phiếu Chính phủ.
Như vậy, có thể thấy NHNN đã phải chịu áp lực không nhỏ
trong việc sửa đổi quy định liên quan trong Thông tư 36 cho phù hợp với yêu cầu,
không chỉ từ thị trường mà còn từ quy chế, chuẩn mực quốc tế. Do đó, việc ban
hành Thông tư 06 sửa đổi Thông tư 36 là một diễn biến tất yếu, có thể đoán định
được từ trước.
Điều còn hơi băn khoăn ở đây là tại sao lại có con số 25%
(cho ngân hàng thương mại nhà nước) và 35% (cho chi nhánh ngân hàng nước
ngoài)? Với con số 35%, có thể phỏng đoán điều này là vì các ngân hàng thương
mại cổ phần vẫn được sử dụng 35% vốn ngắn hạn để đầu tư, mua trái phiếu Chính
phủ, nên NHNN buộc phải nâng tỷ lệ tương ứng cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài
để đảm bảo tính công bằng, cũng như tăng cường thêm một nguồn lực huy động so
với trước đây.
Với tỷ lệ 25% áp dụng cho ngân hàng thương mại nhà nước,
có lẽ lý do chỉ là do quy mô áp đảo của những ngân hàng này trong hệ thống ngân
hàng làm cho chúng trở thành những “tay chơi” chủ chốt trên thị trường trái
phiếu Chính phủ. Do đó, nếu đưa tỷ lệ áp dụng cho các ngân hàng này lên 35%
bằng với các ngân hàng khác thì các ngân hàng thương mại nhà nước có khả năng
sẽ “mua tranh bán cướp” trái phiếu Chính phủ với các ngân hàng thương mại nhỏ
hơn khi cần thiết, nên, về nguyên tắc, lại tạo ra một sự bất công bang.
Tác động
Thông tư 06 được ban hành đúng vào thời điểm thanh khoản trong hệ thống
ngân hàng đang dư thừa, lãi suất liên ngân hàng gần đây đã sụt giảm xuống mức
thấp nhất trong vòng một năm trở lại đây. Bình thường, nếu còn bị “trói” bởi
Thông tư 36 thì dù có thừa tiền, các ngân hàng thương mại cũng không thể đổ xô
vào trái phiếu Chính phủ, và, do đó, tiền thừa thì vẫn cứ thừa còn trái phiếu
Chính phủ “ế” thì vẫn cứ “ế”.
Với Thông tư 06, các ngân hàng có thêm room để tiêu bớt tiền thừa, đương
nhiên với lãi suất đấu thầu trái phiếu có chiều hướng đi xuống do cầu tăng
mạnh. Nói cách khác, cả Chính phủ và ngân hàng đều được lợi trong thời điểm
hiện tại nhờ Thông tư 06.
Tuy nhiên, không có điều gì chỉ toàn làm lợi cho tất cả mọi người. Việc
nâng tỷ lệ vốn ngắn hạn đầu tư, mua trái phiếu Chính phủ cũng là một con dao
hai lưỡi khi vì một lý do nào đó thanh khoản trở nên eo hẹp hơn, và/hoặc nhu
cầu tín dụng của nền kinh tế tăng mạnh. Hiện tại, thanh khoản dư thừa có thể vì
hai yếu tố chính: NHNN đã nới lỏng cung tiền (một phần có thể do đã mua nhiều
tỉ USD mà không trung hòa hết lượng VND đối ứng); và tăng trưởng tín dụng đã
chựng lại trong tháng 5.
Khi một trong hai yếu tố này mất đi (NHNN không mua USD nữa vì lo ngại lạm
phát quay đầu tăng trở lại, hoặc nhu cầu tín dụng được phục hồi do tăng trưởng
kinh tế phục hồi) thì sẽ đến lúc trái phiếu Chính phủ sẽ phải cạnh tranh gay
gắt với phần còn lại của nền kinh tế để thu hút nguồn vốn từ hệ thống ngân
hàng. Sự điều chỉnh tăng lên trong tỷ lệ vốn ngắn hạn được phép đầu tư vào trái
phiếu Chính phủ sẽ vô hình trung giúp trái phiếu Chính phủ có thêm lợi thế
trong cuộc cạnh tranh này.
Lúc này sẽ xảy ra hậu quả kép: không chỉ là mặt bằng lãi suất chung cao hơn
mà còn là vốn ngân hàng lẽ ra dành cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
vừa và nhỏ, bị “cào” về phía Chính phủ, càng làm trầm trọng thêm nạn đói vốn
(nhất là vốn với lãi suất thấp) cho các doanh nghiệp. Kết cục là tăng trưởng
sụt giảm, mặc dù áp lực lên thâm hụt ngân sách được giải tỏa phần nào nhờ tiêu
thụ được trái phiếu Chính phủ.
Lưu ý rằng cũng chính bởi quan ngại nói trên mà NHNN đã phải ban hành Thông
tư 36. Nay nó được thay thế bởi Thông tư 06 với sự nới lỏng hơn đáng kể. Hiện
tại, tuy tình hình xem ra vẫn đang ủng hộ Thông tư 06, nhưng vấn đề là tình
hình thuận lợi này kéo dài được bao lâu, khi lạm phát đang có dấu hiệu tăng lên
rõ rệt, buộc NHNN phải thận trọng hơn với chính sách tiền tệ, và, do đó, không
sớm thì muộn thanh khoản sẽ trở nên căng thẳng?
Hy vọng rằng NHNN sẽ không sớm phải một lần nữa ban hành một thông tư khác để
thay thế Thông tư 06 với tỷ lệ về vốn ngắn hạn được phép đầu tư vào trái phiếu lại
được điều chỉnh thấp xuống như trước.
No comments:
Post a Comment