Thursday 28 July 2016

Tăng khai thác dầu thô cũng không làm tăng được GDP! (Bài đăng trên CafeF, 28/7/2016)


http://cafef.vn/tang-khai-thac-dau-tho-cung-khong-lam-tang-duoc-gdp-20160727211438424.chn

Tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm mới chỉ đạt 5,52%, giảm tốc so với mức tăng 6,1% cùng kỳ năm 2015. Để đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm nay là 6,7% như mức mục tiêu được Quốc hội đề ra cho Chính phủ thì tăng trưởng 6 tháng còn lại của năm phải đạt 7,6%.

Trong bối cảnh khó thực hiện được mục tiêu tăng trưởng, đã có một số đề xuất tăng sản lượng khai thác dầu thô để vực tăng trưởng của nền kinh tế trong các tháng còn lại.

Ý tưởng này thực tế là một ý tưởng tồi, không chỉ vì nó làm đậm thêm hình ảnh trong sự hình dung của nhiều người về một nền kinh tế nặng về “đào, xúc, múc”, trong khi trữ lượng dầu mỏ của Việt Nam không có nhiều, mà còn không tính đến thực tế rằng giá dầu thô đang ở mức rất thấp, thậm chí thấp hơn cả giá thành khai thác. Nếu cứ nhắm mắt mà khai thác thì không những GDP không tăng lên được mà, ngược lại, còn bị giảm tốc thêm vì các doanh nghiệp khai thác dầu thô sẽ bị lỗ và giảm phần đóng góp cho ngân sách trong các tháng kế tiếp.

Để minh họa rõ hơn về chuyện này, hãy xem xét cụ thể tình hình thực tế trong ngành khai thác dầu thô hiện nay ở Việt Nam.

Theo thông tin trên báo chí cho biết, sản lượng khai thác dầu thô 6 tháng đầu năm của PVN đạt 8,92 triệu tấn, bằng 55,6% kế hoạch năm. Tuy nhiên, các đơn vị thành viên chủ lực của PVN như Vietsovpetro, PVEP, Rusvietpetro… đều không hoàn thành chỉ tiêu doanh thu, nộp ngân sách và lợi nhuận theo kế hoạch đề ra, thậm chí còn bị giảm so với cùng kỳ năm 2015.     

Lý do đơn giản là giá dầu giảm mạnh, thậm chí có giai đoạn chỉ đạt 26,5 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ năm 2003. Theo báo cáo của PVN, kể cả khi giá dầu dự kiến cả năm là 44 USD/thùng, thì doanh thu ước tính của tập đoàn cũng chỉ đạt 33.080 tỷ đồng, bằng 86% kế hoạch năm. Nhưng với giá dầu này thì tập đoàn sẽ lỗ 500 tỷ đồng, nộp ngân sách chỉ đạt 9.176 tỷ đồng, bằng 73% kế hoạch năm.

Với giá dầu thô tiếp tục biến động mạnh ở trong vùng giá thấp và ít có khả năng phục hồi do nguồn dư cung quá lớn trực chờ cầu tăng để tung ra thị trường, khả năng cao là các doanh nghiệp khai thác dầu khí sẽ tiếp tục đối mặt với rủi ro thua lỗ. Kể cả có tăng sản lượng khai thác thì sẽ chỉ dẫn đến kết quả tuy là doanh thu tăng nhưng lợi nhuận càng âm sâu.

Quay trở lại với chuyện đóng góp của ngành khai thác dầu khí vào GDP. Dường như cách hiểu của nhiều người về phương pháp tính tốc độ gia tăng GDP ở Việt Nam là dựa trên mức gia tăng sản lượng hàng hóa và dịch vụ mà không tính đến biến động hiện tại của giá hàng hóa và dịch vụ, vì đã cố định giá hàng hóa và dịch vụ ở mức tham chiếu của năm cơ sở, là năm 2010.

Vì thế, giả sử năm trước khai thác được 10 triệu tấn dầu thô, quy theo giá cố định năm 2010 là, ví dụ, 2 triệu đồng/tấn thì thu được 20 nghìn tỷ đồng. Nếu năm nay tăng sản lượng khai thác lên 15 triệu tấn với giá cố định trên thì sẽ thu được 30 nghìn tỷ đồng. Tức là GDP sẽ tăng lên được thêm 10 nghìn tỷ đồng theo giá cố định nhờ tăng sản lượng khai thác dầu khí. Nếu cứ tiếp tục gia tăng mạnh sản lượng khai thác dầu thô theo cách này thì đúng là chuyện “đẩy” tăng trưởng GDP lên thêm vài điểm phần trăm không phải là chuyện khó.

Nhưng nếu xét đến bản chất GDP của một nền kinh tế là tổng giá trị thặng dư tạo ra từ các hoạt động kinh tế thì rõ ràng hành động tăng sản lượng khai thác dầu thô trong bối cảnh giá bán dầu thô đang ở mức thấp kỷ lục trong nhiều năm như nói trên không những không tạo ra thêm giá trị thặng dư mà thậm chí sẽ làm hao hụt nó đi. Điều này cũng tương tự như một người thất nghiệp, tự ra đào bới một mảnh đất dù không ai thuê mướn. Người này đúng là đang lao động, nhưng hoàn toàn không có một chút giá trị nào, không có đồng tiền nào được làm ra cho bản thân và gia đình anh ta. Ngược lại, vì đào bới mệt nhọc như vậy nên anh ta phải tốn thêm tiền mua nước uống và thức ăn để phục hồi sức lực, nên càng thâm hụt thêm ngân quỹ của anh ta.

Do vậy, để thúc đẩy tăng trưởng GDP thì không những chỉ thúc đẩy các hoạt động kinh tế nói chung, mà còn phải lựa chọn, tập trung nguồn lực khan hiếm, hữu hạn vào thúc đẩy những ngành có khả năng mang lại nhiều giá trị gia tăng nhất. Trong bối cảnh dư thừa cung lớn trên phạm vi toàn cầu, giá dầu bấp bênh ở mức thấp thì ngành khai thác dầu khí tuyệt đối không phải là cái phao cứu sinh cho nền kinh tế. 

Tuesday 26 July 2016

Mục tiêu phải thực tế hơn (Trả lời phỏng vấn trên Đại biểu Nhân dân, 26/7/2016)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=375717

Không thể hoàn thành
- Nghị quyết của QH yêu cầu Chính phủ, các bộ, ngành trong năm 2016, cơ bản hoàn thành CPH doanh nghiệp nhà nước và xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Ông nghĩ như thế nào về mục tiêu này?
- Tôi nghĩ yêu cầu này không có tính khả thi. Nhớ lại mấy năm trước đã có kế hoạch CPH gần 500 doanh nghiệp nhà nước với rất nhiều quyết tâm và hứa hẹn của Chính phủ, các bộ, ngành mà rốt cuộc chỉ CPH được một số ít trong con số đó.
Vấn đề đáng nói nữa là sự việc dở dang như vậy nhưng không một ai phải chịu trách nhiệm và bị xử lý, mặc dù không ít lần Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành những nghị quyết đốc thúc CPH với lời “đe dọa” sẽ xử lý người đứng đầu cản trở việc này. Nói cách khác, không chỉ là thời gian quá gấp rút (chưa đầy nửa năm nữa) mà còn do sức ì, sự thiếu trách nhiệm, hay sự vụ lợi của những người liên đới sẽ làm cho việc CPH doanh nghiệp nhà nước không thể hoàn thành về cơ bản trong năm nay.
- Vậy còn yêu cầu “xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế” thì sao, thưa ông? 
- Về yêu cầu này, tôi nghĩ rằng nếu có thể thực hiện được thì chỉ là trong một bộ phận doanh nghiệp đã CPH một thời gian trước đây. Những doanh nghiệp này đã có quá trình chuẩn bị, hoặc dưới sức ép của cổ đông (nếu là doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối) mới có thể thực hiện được.
Đối với những doanh nghiệp nhà nước còn lại, đang hoặc chưa CPH thì ngay việc có CPH được hay không cũng đã là điều chưa chắc chắn thì không thể hy vọng chúng sẽ xây dựng được hệ thống quản trị doanh nghiệp (nhà nước) tiên tiến, tức là phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Trong trường hợp QH yêu cầu Chính phủ xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước nguyên trạng (chứ không phải doanh nghiệp nhà nước sau CPH) thì yêu cầu này cũng là không tưởng. Vì, cũng như đã đề cập đến, thời gian còn lại của năm nay chỉ còn khoảng hơn 5 tháng nữa. Với thời gian ngắn ngủi này thì thậm chí chưa đủ để nghiên cứu và hiểu hết khái niệm quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường và cả thông lệ quốc tế.
Quan trọng hơn, quản trị doanh nghiệp nhà nước là một chuyện, để nền quản trị này có phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế hay không lại là chuyện hoàn toàn khác, không phụ thuộc vào ý chí của doanh nghiệp, thậm chí cả Chính phủ. Ví dụ, quản trị doanh nghiệp yêu cầu doanh nghiệp phải theo đuổi lợi nhuận, nhưng vì là doanh nghiệp nhà nước nên nó vẫn phải thực hiện những “sứ mệnh” như bình ổn thị trường mà một cơ quan chủ quản hay chính quyền yêu cầu, tức là một sứ mệnh đi ngược lại nguyên tắc thị trường. Vậy thì để áp dụng được hệ thống quản trị doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế thì trước tiên phải biến doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp phi nhà nước. Nghĩa là phải CPH, biến nó thành doanh nghiệp tư nhân, cùng lắm thì có cổ phần nhà nước đã rồi mới tính đến chuyện áp dụng hệ thống quản trị doanh nghiệp tiên tiến.
Nền kinh tế tiếp tục “è cổ” bù lỗ
 - Việc không đạt được mục tiêu của QH đề ra theo ông sẽ dẫn tới hậu quả gì?
 - Để tránh được phần nào kết cục không mấy tốt đẹp là QH đặt ra mục tiêu nhưng Chính phủ không thực hiện được thì trước tiên QH cũng phải nhìn vấn đề thực tế hơn, bằng cách không đặt yêu cầu phải thực hiện xong CPH ngay trong năm nay, vì như đã nói, thời gian không còn nhiều. Nếu cứ khăng khăng với mục tiêu như vậy thì chẳng khác gì QH “đánh đố” Chính phủ.
Nếu QH đã giãn thời gian thực hiện, ví dụ đến hết năm 2017, mà Chính phủ không thực hiện được, thì hậu quả đương nhiên vẫn sẽ là nền kinh tế phải tiếp tục “è cổ” bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước. Bởi đa phần những doanh nghiệp này càng tồn tại với tư cách doanh nghiệp nhà nước ngày nào thì càng tiếp tục thua lỗ, thất thoát mà thôi.
- Theo ông, vướng mắc lớn nhất hiện nay của CPH là gì?
- Đó là tình trạng những người liên đới không mặn mà thực hiện, vì sợ mất ghế, mất quyền lợi… Để đẩy nhanh CPH thì phải gắn nó với trách nhiệm cá nhân, người đứng đầu, mà xét tới cùng chính là Thủ tướng Chính phủ. Khi trách nhiệm được quy định rõ ràng thì CPH mới có thêm nhiều khả năng thành công.
- Xin cảm ơn ông!
Hồng Loan thực hiện

Friday 22 July 2016

Ủy ban không phải là lời giải (Bài đăng trên TBKTSG, 23/7/2016, bản gốc)


http://www.thesaigontimes.vn/149048/Uy-ban-khong-phai-la-loi-giai-phu-hop.html
Mới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà trực tiếp là Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã hoàn thành dự thảo thành lập Ủy ban quản lý, giám sát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Theo dự thảo, Uỷ ban này là cơ quan trực thuộc Chính phủ, do Chính phủ thành lập, giúp Chính phủ quản lý giám sát toàn bộ danh mục tài sản, vốn của Nhà nước tại 30 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là các tập đoàn, tổng công ty, bao gồm cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). 
Về mô hình tổ chức và hoạt động của Ủy ban này, được biết nó được hình thành dựa trên tham khảo mô hình hoạt động của các cơ quan chuyên trách tương tự ở nhiều nước trên thế giới, trong đó thường được trích dẫn là Temasek Holdings của Singapore.
hình Temasek Holdings
Temasek Holdings là cỗ máy đầu tư cho Chính phủ Singapore, với Chính phủ là cổ đông chi phối. Nó chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng thống nên phản ánh thuộc tính sở hữu nhà nước. Đồng thời, nó có chức năng như một công ty mẹ của nhiều công ty có ít nhất 20% cổ phần nắm giữ bởi Chính phủ. 
Tuy nhiên, Temasek về danh nghĩa là một công ty tư nhân trách nhiệm hữu hạn, được thành lập năm 1974 để nắm giữ cổ phần trong các công ty mà trước đó được nắm giữ trực tiếp bởi Chính phủ Singapore. Xét về cơ cấu chủ sở hữu và mục đích kinh tế khi thành lập, Temasek thực chất là một tổ chức đầu tư tư nhân.
Tư cách là một công ty tư nhân của Temasek là để đảm bảo việc quản lý vốn nhà nước tại các công ty thuần túy dựa trên góc độ thương mại, chỉ theo đuổi lợi nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông, trong đó có Chính phủ, nhờ đó giúp Chính phủ tách biệt chức năng quản lý nhà nước, điều tiết thị trường với chức năng làm kinh tế.
Tuy là một công ty đầu tư tư nhân, thuộc tính sở hữu nhà nước của Temasek được thể hiện dưới 3 khía cạnh: (1) Tổng thống phê chuẩn bổ nhiệm các vị trí chủ chốt như thành viên Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc; (2) ngân quỹ cho hoạt động và các giao dịch không được lấy từ nguồn dự trữ có từ trước khi thành lập Chính phủ nhiệm kỳ hiện tại, trừ trường hợp được Tổng thống phê duyệt; và (3) Các công ty và tổ chức Chính phủ phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản. Ngoài 3 khía cạnh này, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Temasek có toàn quyền và chịu trách nhiệm hoàn toàn trong quyết định đầu tư và kinh doanh, phản ánh thuộc tính sở hữu tư nhân.
Có thể nói, mô hình hoạt động như một công ty mẹ của Temasek đã và đang tiếp tục thành công là nhờ có phương hướng hoạt động rõ ràng, tách bạch khỏi can thiệp chính trị, và minh bạch, với nền tảng quản trị tiến bộ. Đây cũng chính là định hướng chung cho việc cải cách các DNNN ở mọi nước. Ngoài ra, một điểm quyết định đến sự thành công của mô hình Temasek phải có cả một hệ thống quản trị trong sạch và đúng đắn, từ thượng tầng là Chính phủ và các bộ ngành quản lý chức năng đến hạ tầng là các doanh nghiệp.
Chưa tương thích với Việt Nam
Để mô hình Temasek có thể áp dụng vào Việt Nam, trước tiên cần phải xem xét xem liệu điều kiện văn hóa, chính trị, xã hội của Việt Nam có dung dưỡng hay lại đào thải mô hình này. Không khó để thấy môi trường văn hóa quản trị đúng đắn và trong sạch ở Singapore mà Temasek đang hoạt động là hoàn toàn trái ngược với môi trường tương ứng ở Việt Nam. Singapore được xếp hạng thứ 8 trong bảng xếp hạng mức độ tham nhũng (Corruption Perceptions Index) năm 2015, trong khi thứ hạng của Việt Nam là 112 trên tổng số 167 nước được xếp hạng. Môi trường kinh doanh bị vẩn đục bởi tham nhũng cao, bất minh bạch như vậy hiển nhiên là một trong những vật cản lớn trong việc áp dụng mô hình Temasek ở Việt Nam.
Điều quan trọng cần xem xét tiếp theo là phiên bản Việt Nam của Temasek, tức Ủy ban trên, có được hoàn toàn độc lập với các can thiệp chính trị hay không. Theo dự thảo Nghị định liên quan, Ủy ban này trực thuộc Chính phủ và chịu sự quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ theo ngành. Ngoài ra, ủy ban cũng trực tiếp thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về tái cơ cấu, thoái vốn, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, không những là một cơ quan quản lý của nhà nước chứ không phải là một công ty tư nhân như Temasek, Ủy ban này, có thể nói, vẫn chỉ là cánh tay nối dài của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, thậm chí của các bộ và cơ quan ngang bộ. Với tư cách “chịu sự quản lý” của nhiều tầng lớp, tổ chức như vậy thì khó có thể nói hoạt động của Ủy ban này có thể độc lập với các can thiệp chính trị, mang tính mệnh lệnh, và do đó cũng khó có thể tránh được tình trạng là nó phải tiếp tục, ví dụ, rót vốn vào những DNNN, những dự án không có hiệu quả về mặt thương mại nhưng lại là những doanh nghiệp, những dự án là “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”.
Xét về phương hướng hoạt động, Ủy ban trên ngoài nhiệm vụ tối đa hóa hiệu quả đầu tư nhà nước tại các doanh nghiệp như của Temasek, thì còn phải ôm đồm thêm nhiều nhiệm vụ khác, trong đó có nhiệm vụ tái cơ cấu, thoái vốn, sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN. Như vậy, nó trở thành một cơ quan đa nhiệm nên, về nguyên tắc, sẽ không thể giỏi trong từng lĩnh vực mà nó phải đảm nhận, đồng thời cũng không tránh khỏi sự lẫn lộn, mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau giữa các nhiệm vụ, các lĩnh vực. Nói cách khác, phiên bản Temasek ở Việt Nam đã vi phạm một trong những nguyên tắc chính của việc cải cách DNNN là phải có phương hướng hoạt động rõ ràng.
Xét về văn hóa quản trị, Ủy ban trên cũng khó có thể tái hiện được nền quản trị doanh nghiệp lành mạnh và tiến bộ như của Temasek ở Việt Nam. Với Temasek, các phương pháp, chuẩn mực quản trị tiến bộ, tiên tiến đều được áp dụng, với Hội đồng quản trị và ban giám đốc gồm nhiều thành viên độc lập, không mang quốc tịch Singapore, nhiều người vốn là những nhà quản lý cấp cao của nhiều công ty lớn. Các thông tin về hoạt động và tài chính của Temasek được công bố rất đầy đủ và dễ dàng tương tác và tiếp cận bởi công chúng, cho dù nhiều trong số này không bị yêu cầu phải công bố.
Ngược lại, ở Việt Nam, văn hóa quản trị được đặc trưng bởi thứ văn hóa “đúng quy trình” mà chẳng mấy ai biết được cái “quy trình” này là cái gì. Nếu có gì đó bị phát hiện là sai, bị phê phán, chỉ trích thì người ta đều dễ dàng dùng đến “bùa hộ mệnh” là “đúng quy trình”.
Thêm nữa, về mặt nhân sự, có lẽ sẽ ngược lại với Temasek, Ủy ban trên sẽ lại gồm những nhân sự lấy từ các bộ, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan hành chính… tức là những người làm cán bộ, viên chức giỏi hơn là làm nhà quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư chuyên nghiệp mang tầm quốc tế. Vẫn những lối tư duy đó, những ràng buộc về “cơ chế” hiện tại, và vẫn tinh thần coi tài sản nhà nước là tài sản chung theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Có khác chăng chỉ là sự quy tụ về “chung một mái nhà” của những con người này, thay vì nằm rải rác ở khắp các nơi mà thôi.
Cũng không làm giảm thất thoát tài sản nhà nước
Lý giải về sự cần thiết thành lập Ủy ban trên, ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng, đại ý, Việt Nam có tình trạng sử dụng lãng phí, làm thất thoát lớn tài sản công mà không tìm thấy ai chịu trách nhiệm cả. Điều này được thể hiện qua hàng loạt dự án “đắp chiếu” như Xơ sợi Đình Vũ, Phân đạm Ninh Bình, Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy ethanol… làm mất vốn Nhà nước rất lớn nhưng đến nay chưa ai bị xử lý. Ủy ban trên ra đời, theo kỳ vọng, sẽ ngăn được tình trạng vốn nhà nước đang bị hao mòn như hiện nay.
Như trên đã phân tích, Ủy ban trên dù có mang dáng hình của Temasek nhưng không thể hoạt động như kiểu và chất lượng của Temasek được. Sự ra đời của Ủy ban này cũng không giúp làm giảm thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước vì vấn đề không nằm ở chỗ quy về một mối các DNNN hay để chúng nằm ở nơi hiện tại.
Chừng nào còn sự bất minh bạch trong quản trị doanh nghiệp, còn sự can thiệp của một quan chức, một cơ quan có thẩm quyền nào đó, còn sự lẩn trốn trách nhiệm dưới chiêu bài “đúng quy trình”, “là quyết định của tập thể”, “là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”, là “thực hiện theo quy hoạch phát triển”, và “do cơ chế”, hoặc là do “phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm” mà một quan chức nào đó đã chỉ đạo cho doanh nghiệp, cho địa phương thực hiện trong lúc hứng khởi… thì chừng đó vẫn sẽ tiếp tục còn những doanh nghiệp “đắp chiếu”, thất thoát hàng nghìn tỷ đồng, mà vẫn chẳng vạch mặt, chỉ tên được ai phải chịu trách nhiệm.
Vậy thì Ủy ban trên nếu có được cho ra đời thì bất quá chỉ như là một sự phóng to SCIC lên một quy mô mới lớn hơn nhiều. Vì các nguyên nhân để xảy ra những dự án “đắp chiếu” vẫn còn nguyên đó khi Ủy ban này ra đời, nên Ủy ban này sẽ lại na ná như một VAMC (Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam), trở thành nơi quản lý gom về một mối các dự án “đắp chiếu” này, thay vì để chúng nằm lại ở các bộ.
Tương tự như vậy, nếu Ủy ban trên trực tiếp quyết định sử dụng vốn đầu tư tại DNNN để đầu tư vào đâu, ngành nào, phân bổ bao nhiêu vốn… như dự thảo hiện nay thì về bản chất cũng chỉ là tương tự như việc thực hiện bởi SCIC hoặc các bộ hiện nay.
Nói cách khác, giải pháp cho ra đời Ủy ban trên là lời giải lạc đề cho chuyện thất thoát, lãng phí, hoạt động không có hiệu quả của DNNN, của đầu tư từ vốn nhà nước mà không quy trách nhiệm cho ai được!

Wednesday 20 July 2016

“Siêu ủy ban” - lời giải lạc đề (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 18/7/2016)


http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=375366

Mới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà trực tiếp là Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã hoàn thành dự thảo thành lập Ủy ban quản lý, giám sát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Theo dự thảo, Uỷ ban này là cơ quan trực thuộc Chính phủ, do Chính phủ thành lập, giúp Chính phủ quản lý giám sát toàn bộ danh mục tài sản, vốn của Nhà nước tại 30 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là các tập đoàn, tổng công ty, bao gồm cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Bên cạnh đó, cơ quan này còn trực tiếp hoặc chủ trì tham mưu, giúp Chính phủ và Thủ tướng về chính sách sở hữu Nhà nước, về tái cơ cấu, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Ủy ban này cũng sẽ tập trung nguồn vốn nhà nước đang đầu tư tại doanh nghiệp để đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực chiến lược, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế. 

Lý giải về sự cần thiết thành lập ủy ban này, ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng, đại ý, Việt Nam có tình trạng sử dụng lãng phí, làm thất thoát lớn tài sản công mà không tìm thấy ai chịu trách nhiệm cả. Điều này được thể hiện qua hàng loạt dự án “đắp chiếu” như Xơ sợi Đình Vũ, Phân đạm Ninh Bình, Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy ethanol… làm mất vốn Nhà nước rất lớn nhưng đến nay chưa ai bị xử lý. Ủy ban trên ra đời, theo kỳ vọng, sẽ ngăn được tình trạng vốn nhà nước đang bị hao mòn như hiện nay.

Đề đánh giá một cách khách quan vai trò và sự cần thiết của ủy ban này, trước tiên ta cần phân tích tại sao lại có tình trạng sử dụng lãng phí, làm thất thoát lớn tài sản nhà nước mà không ai chịu trách nhiệm, không ai bị xử lý. Khi đã rõ lý do thì ta sẽ tiếp tục phân tích xem liệu ủy ban trên có khắc phục được tình trạng không xử lý được ai đã gây thất thoát, lãng phí tài sản công, để rồi từ đó mới có thể kết luận thành lập ủy ban này có phải là một chủ trương đúng và hữu hiệu không.

Có lẽ không cần phải tốn thời gian để chỉ ra những nguyên nhân chính của việc có thất thoát, lãng phí lớn mà không quy trách nhiệm được cho ai. Đó chính là sự “đúng quy trình”, là “trách nhiệm tập thể”, là “thực hiện theo quy hoạch”, là “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”, là “phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, là “do cơ chế”…

Chẳng hạn, hầu như bất kể vụ việc lớn nhỏ, sai lè lè nào, người ta đều dễ dàng dùng đến “bùa hộ mệnh” là “đúng quy trình”, từ việc cấp dưới đề xuất chủ trương (đầu tư), và cấp trên thấy là cần thiết, cấp bách, hoặc “có ý nghĩa chính trị và xã hội” (chứ không nhất thiết là có ý nghĩa kinh tế) là mọi cá nhân và tập thể liên đới xem ra sẽ bình an tuyệt đối. Có ai đủ “gan” và thẩm quyền để lật đổ cái “đúng quy trình” này được? Mà có ai hiểu cụ thể cái “đúng quy trình” là cái gì để mà chống lại nó như chàng Don Quixote chiến đấu chống lại cối xay gió?

Về “trách nhiệm tập thể”, hầu như không có bất cứ một dự án đầu tư nào của nhà nước, hoặc DNNN, mà lại không là kết quả của một sự nhất trí và ủng hộ về chủ trương và thực thi giữa nhiều bên liên đới, từ ban giám đốc, đảng ủy, chính quyền, công đoàn…, và người đứng đầu ký tên vào dự án chỉ là người đại diện, ký thay cho tập thể này mà thôi, chứ không phải với tư cách cá nhân, “đứng mũi chịu sào”. Vậy khi xảy ra hậu quả, không nhẽ xử lý trách nhiệm của cả tập thể từng đó con người?

Với lá bùa “thực hiện theo quy hoạch”, quy hoạch được xây dựng cho tầm nhìn cả 20-30 năm, không tránh khỏi sẽ có lúc sai lầm, gây thừa thãi hoặc không có hiệu quả khi mà các biến số đầu vào thay đổi chóng mặt hàng năm. Nhưng quy hoạch là cái nôi cho các dự án đầu tư công, đầu tư bằng tiền vay, cấp phát của nhà nước nên sau này nếu các dự án tỏ ra không có hiệu quả, lãng phí thì đó là do lỗi của quy hoạch chứ chẳng phải là lỗi của ai cả, kể cả tập thể. Mà lỗi của quy hoạch thì không quy trách nhiệm cho người thực hiện dự án được, cùng lắm chỉ sửa lại là đủ.

Với những dự án ra đời bắt nguồn từ “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước” thì vấn đề không phải là có hiệu quả, lãng phí hay không, mà là phải thực hiện, quyết tâm và quyết liệt thực hiện. Với những dự án loại này, nếu không có hiệu quả thương mại thì sẽ có hiệu quả về chính trị, xã hội, hoặc hiệu quả về một cái gì gì đó, và nếu cần thì sẽ được tạo điều kiện tối đa để trở nên hiệu quả.

Còn với “phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, “đi tắt đón đầu”, mới đó chưa lâu người ta còn được nghe những câu khích lệ, động viên lớn này từ một số lãnh đạo cao cấp để rồi ra đời những “xác sống” như Vinashin. Sự việc đã xảy ra rồi, nếu có muốn truy trách nhiệm đến cùng e rằng cũng khó.

Về nguyên nhân do “do cơ chế”, cũng tương tự như nguyên nhân “đúng quy trình”, “cơ chế” cho phép DNNN, các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước được hình thành và hoạt động trong môi trường ít cạnh tranh; “cơ chế” cho phép người quản lý ít chịu sức ép cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp… Vậy để thay đổi những tồn tại của DNNN, ngăn cản sự ra đời của các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước thì phải thay đổi “cơ chế”. Mà “cơ chế” cụ thể là cái gì, ai thay đổi được “cơ chế” xem ra không dễ có câu trả lời.

Chuyển sang câu hỏi, liệu Ủy ban nêu trên có khắc phục được các nguyên nhân gây ra thất thoát, lãng phí lớn hay không. Ủy ban này chắc chắn không xóa bỏ được lối làm việc “đúng quy trình”, vì bản thân nó cũng phải làm việc theo “đúng quy trình” được quy định trong quyết định thành lập nó. Nó cũng không thể có chức năng như quan tòa, xóa bỏ “trách nhiệm tập thể” để vạch ra trách nhiệm của một vài “con sâu” nào đó trong cái tập thể đó, hay đủ thẩm quyền để xóa bỏ chế độ “trách nhiệm tập thể” hiện nay. Bản thân Ủy ban này cũng là một tập thể, ra quyết định mang tính tập thể chứ không phải của một cá nhân nào đó.

Ủy ban trên cũng không có tác dụng gì trong việc làm thay đổi cách đầu tư “theo quy hoạch”, “theo chủ trương của Đảng và Nhà nước”, và cũng không cấm được một vị nào đó một ngày đẹp trời nổi hứng tiếp tục khích lệ tinh thần “dám nghĩ, dám làm (liều)” của các nhà quản lý hiện tại và sau này ở các DNNN, các dự án sử dụng vốn nhà nước.

Vậy thì Ủy ban trên nếu có được cho ra đời thì bất quá chỉ như là một sự phóng to SCIC lên một quy mô mới lớn hơn nhiều. Vì các nguyên nhân để xảy ra những dự án “đắp chiếu” vẫn còn nguyên đó khi Ủy ban này ra đời, nên Ủy ban này sẽ lại na ná như một VAMC (Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam), trở thành nơi quản lý gom về một mối các dự án “đắp chiếu” này, thay vì để chúng nằm lại ở các bộ.

Còn với các 30 tập đoàn và tổng công ty đang hoạt động, cũng khó hy vọng Ủy ban trên, về mặt nghiệp vụ, hoạt động tốt hơn SCIC hoặc các vụ tại các bộ. Cũng vẫn những nhân sự đó – những người làm viên chức giỏi hơn là làm nhà quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư chuyên nghiệp, những lối tư duy đó, những ràng buộc về “cơ chế” hiện tại, và vẫn “tinh thần tập thể” theo kiểu “cha chung không ai khóc” đó thì khó hy vọng Ủy ban này sẽ tạo ra được một chuyển biến căn bản trong việc giảm thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN được nó quản lý.

Tương tự như vậy, nếu Ủy ban trên trực tiếp quyết định sử dụng vốn đầu tư tại DNNN để đầu tư vào đâu, ngành nào, phân bổ bao nhiêu vốn… như dự thảo hiện nay thì về bản chất cũng chỉ là tương tự như việc thực hiện bởi SCIC hoặc các bộ hiện nay.

Nói cách khác, giải pháp cho ra đời Ủy ban trên là lời giải lạc đề cho chuyện thất thoát, lãng phí, hoạt động không có hiệu quả của DNNN, của đầu tư từ vốn nhà nước mà không quy trách nhiệm cho ai được!

Box: hình Temasek Holdings, Singapore

Temasek Holdings là cỗ máy đầu tư cho Chính phủ Singapore, với Chính phủ là cổ đông chi phối. Nó chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng thống nên phản ánh thuộc tính sở hữu nhà nước. Đồng thời, nó có chức năng như một công ty mẹ của nhiều công ty có ít nhất 20% cổ phần nắm giữ bởi Chính phủ (governmnet-linked companies, GLC). 

Tuy nhiên, Temasek về danh nghĩa là một công ty tư nhân trách nhiệm hữu hạn, được thành lập năm 1974 để nắm giữ cổ phần trong các công ty mà trước đó được nắm giữ trực tiếp bởi Chính phủ Singapore. Xét về cơ cấu chủ sở hữu và mục đích kinh tế khi thành lập, Temasek thực chất là một tổ chức đầu tư tư nhân.

Tư cách là một công ty tư nhân của Temasek là để đảm bảo việc quản lý vốn nhà nước tại các công ty thuần túy dựa trên góc độ thương mại, chỉ theo đuổi lợi nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông, trong đó có Chính phủ, nhờ đó giúp Chính phủ tách biệt chức năng quản lý nhà nước, điều tiết thị trường với chức năng làm kinh tế.

Tuy là một công ty đầu tư tư nhân, thuộc tính sở hữu nhà nước của Temasek được thể hiện dưới 3 khía cạnh: (1) Tổng thống phê chuẩn bổ nhiệm các vị trí chủ chốt như thành viên Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc; (2) ngân quỹ cho hoạt động và các giao dịch không được lấy từ nguồn dự trữ có từ trước khi thành lập Chính phủ nhiệm kỳ hiện tại, trừ trường hợp được Tổng thống phê duyệt; và (3) Các công ty và tổ chức Chính phủ phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản. Ngoài 3 khía cạnh này, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Temasek có toàn quyền và chịu trách nhiệm hoàn toàn trong quyết định đầu tư và kinh doanh, phản ánh thuộc tính sở hữu tư nhân.

Tuy vậy, để mô hình Temasek hoạt động hiệu quả, không chỉ cần thỏa mãn 3 điều kiện trên, mà còn phải có cả một hệ thống quản trị trong sạch và đúng đắn, từ thượng tầng là Chính phủ và các bộ ngành quản lý chức năng đến hạ tầng là các doanh nghiệp.

 


Friday 8 July 2016

Không ngẫu nhiên vàng nổi cơn điên! (Bài đăng trên CafeF, 8/7/2016)

http://cafef.vn/khong-ngau-nhien-vang-noi-con-dien-20160708074702577.chn

Ngày 5/7, giá vàng kết thúc ở mức 36,35-36,9 triệu đồng/lượng, nối tiếp gần một tuần giá tăng liên tục. Chưa dừng ở đó, do thị trường đồn đoán rằng giá vàng có thể giá vàng có thể lên tới 40 triệu đồng/lượng hoặc còn có thể cao hơn nữa nên người dân đã đổ xô đi mua vàng ngày 6/7, đẩy giá vàng tăng vọt tới mức đỉnh là 38,8-39,8 triệu đồng/lượng, và cuối cùng chốt phiên ở mức 38,7-39,7 triệu đồng/lượng, là mức cao nhất kể từ tháng 6/2013. Chênh lệch giữa mua vào, bán ra lên tới hơn một triệu đồng. Tuy nhiên, sang ngày 7/7, từ lúc mở phiên giá vàng đã nhanh chóng lao dốc xuống còn 37,7 triệu đồng/lượng, giảm đến hơn 2 triệu đồng/lượng so với đỉnh ngày 6/7.

Đã có một số ý kiến can ngăn, kêu gọi nhà đầu tư thận trọng với biến động bất thường của vàng, kẻo phải gánh lỗ nặng khi vàng lao dốc, do thị trường hiện nay đang tiềm ẩn nguy cơ đầu cơ, lướt sóng ngắn hạn rất cao và sự lao dốc như trên được xem như là sự ứng nghiệm cho lời can ngăn, cảnh báo trên.

Nhưng việc can ngăn, cảnh báo trên xem ra đúng trong mọi hoàn cảnh nên thực ra vì thế không mấy trọng lượng. Ranh giới giữa nhà đầu tư (nhằm mục đích bảo toàn tài sản khi rủi ro của những loại tài sản tài chính khác tăng lên) và nhà đầu cơ (nhằm mục đích lướt sóng kiếm chênh lệch giữa mua và bán) là rất mờ nhạt.

Rất có thể ban đầu sự kiện Brexit kích hoạt hành động đầu tư bảo toàn tài sản khi các đồng tiền khác nhảy nhót, và triển vọng kinh tế toàn cầu trở nên ảm đạm hơn. Nhưng hành động này đã và sẽ dẫn đến giá vàng biến động theo hướng tăng nhanh và mạnh, nên nó lập tức cũng kích hoạt hành động đầu cơ lướt sóng, với suy tính rằng giá vàng sẽ phải đạt ít nhất là từng này, từng kia trong ngày đó. Cả 2 hành động này sẽ tiếp tục “nương” vào nhau mà thúc đẩy người ta dốc toàn lực lao vào đánh cược với thị trường và đẩy giá vàng đi lên.

Một điểm đặc biệt “thuận lợi” cho cơn sốt vàng là sau khi Brexit diễn ra, người ta không/chưa trông thấy yếu tố khả quan nào khác làm dịu các rủi ro đang hiện hữu trong nền kinh tế toàn cầu. Ngược lại, chỉ thấy toàn những tin làm lợi cho giá vàng như Fed dường như sẽ tiếp tục trì hoãn (vô thời hạn) tăng lãi suất hay Trung Quốc tiếp tục phá giá đồng Nhân dân tệ, còn các tổ chức quốc tế thì thi nhau hạ triển vọng tăng trưởng toàn cầu.
Bên cạnh đó, một yếu tố cũng “thuận lợi” không kém là thực tế giá vàng trong nước vẫn còn thấp hơn giá vàng quốc tế, trong khi giá vàng quốc tế vẫn tiếp tục xu hướng đi lên kể cả trong ngày 7/7 là ngày giá vàng trong nước điều chỉnh mạnh. Chưa hết, đối nghịch với áp lực cầu về vàng tăng đột ngột và mạnh, nguồn cung vàng trong nước thì bị khóa chặt ở đầu nhập khẩu, do chính sách quản lý vàng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).

Trước những diễn biến bất lợi về cung và cầu như trên thì giá vàng tăng lên và tăng mạnh là chuyện hiển nhiên. Tất nhiên là giá vàng hay giá của bất cứ thứ gì cũng vậysẽ không thể đi lên mãi mà phải có một điểm dừng nào đó, trước khi đổ sụp. Vì điều này chắc chắn xảy ra nên ý kiến can ngăn, cảnh báo nói ở trên kiểu gì cũng đúng, không sớm thì muộn, không xảy ra ngay trong ngày, trong tuần này thì ắt sẽ phải xảy ra trong… năm nay hoặc năm sau! Giá như có ai đó chỉ ra trước được rằng giá vàng sẽ lên đỉnh là 39,9 triệu đồng/lượng vào ngày 7/7, và chớ có nên mua vào ở cái giá đỉnh điểm này, thì đó mới là lời can ngăn, cảnh báo đắt giá và đáng mang ra bàn ở đây.

Bằng không, chừng nào còn sóng (mạnh), còn những lời đồn đoán có lý (ví dụ, dựa trên phân tích cung cầu như trên) và cả “đoán mò”, còn những yếu tố ủng hộ xu thế tăng giá của vàng thì chừng đó người ta sẽ còn tiếp tục “sống chết” với vàng, và không lời can ngăn, cảnh báo chung chung nào kiểu trên có thể ngăn cản được cơn sốt vàng. Nói cách khác, với diễn biến hiện nay của thị trường quốc tế thì sự điều chỉnh mạnh của giá vàng hôm 7/7 rất có thể chỉ là sự tạm nghỉ ngắn ngủi.

Nếu muốn “cầm cương” thị trường vàng như đã từng tuyên bố và được lặp lại mới đây thì NHNN có một giải pháp khả thi là tung vàng trong quỹ dự trữ ngoại hối của mình ra bán (bán đấu thầu vàng như thực hiện trong năm 2014) với giá chỉ định nào đó thấp hơn giá thị trường. Nhưng vì số vàng dự trữ có hạn nên nếu áp lực thị trường tiếp tục tăng lên thì việc bán vàng can thiệp này chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Ngoài ra, vì giá vàng thế giới vẫn đang xu hướng đi lên và cao hơn giá trong nước nên kể cả việc NHNN mua vàng về bán trong nước qua đấu thầu hay cho phép nhập khẩu vàng, thì, về nguyên tắc, cũng không làm dịu cơn sốt vàng trong nước.

NHNN cũng có thể phải dùng đến những giải pháp hành chính như quy định đối tượng được mua, được bán vàng, và số lượng vàng được mua/bán trong mỗi giao dịch, đồng thời nhờ lực lượng công an và kiểm soát thị trường kiểm tra, phát hiện và xử phạt các giao dịch vàng không chính thức v.v… Nhưng việc này cũng sẽ không mấy tác dụng, vì nó cũng tương tự như chuyện kiểm soát thị trường ngoại tệ tự do.

Về ảnh hưởng giữa giá vàng với ngoại tệ, không nói đến kênh liên thông thường nghĩ đến giữa giá vàng và ngoại tệ ở Việt Nam là khi giá vàng tăng thì nhu cầu USD tăng lên để đáp ứng việc nhập vàng lậu. Hiện, khi mức độ rủi ro và bất ổn của cả kinh tế thế giới đều tăng lên, trong khi giá vàng đã tăng mạnh và đứng ở mức cao, có thể làm nhiều nhà đầu tư/đầu cơ chùn tay, thì sự chú mục sẽ được chuyển sang những hầm trú ẩn an toàn và là phương tiện lướt sóng khác. Hiện tại, rõ ràng là nhìn đi nhìn lại thì chỉ thấy có USD là đáp ứng được mục đích này, đặc biệt là khi tỷ giá đang rất ổn định ở mức thấp trong khi các bản tệ khác biến động mạnh. Do đó, có thể nói tỷ giá VND/USD sẽ chịu thêm áp lực từ giá vàng tiếp tục gia tăng, ít nhất trong ngắn hạn.

Saturday 2 July 2016

Tăng trưởng sẽ chịu nhiều áp lực hơn (Bài đăng trên TBKTSG, 3/7/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/148285/Tang-truong-se-chiu-nhieu-ap-luc-hon.html


Bài này được viết ngay trước thời điểm Tổng cục Thống kê (TCTK) dự kiến công bố số liệu kinh tế 6 tháng đầu năm nên nội dung chỉ tập trung vào triển vọng tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm dựa trên phân tích những rủi ro mà nền kinh tế đang và sẽ phải đối mặt, mặc dù tăng trưởng 6 tháng đầu năm khi được công bố có thể vẫn là một con số khả quan nào đó so với cùng kỳ năm trước.
Sử dụng số liệu thống kê do TCTK công bố cho 5 tháng đầu năm (riêng lạm phát đã có số liệu tháng 6), có thể thấy một số diễn biến đáng chú ý sau.
Sản lượng tăng chậm hoặc giảm sút
Trong chăn nuôi, trồng trọt, tình hình chung cho thấy sản xuất đều có sự tụt giảm từ vừa phải đến đáng kể trên hầu như mọi chỉ số, từ gieo cấy, thu hoạch lúa đông xuân, gieo sạ lúa hè thu, đến gieo trồng hoa mầu và chăn nuôi trâu bò. Về nguyên nhân thì có lẽ chủ yếu do nguyên nhân khách quan như thời tiết rét đậm, rét hại, sâu bệnh, đến nắng nóng, hạn hán, khô hạn và xâm nhập mặn. 
Lâm nghiệp và thủy sản là 2 lĩnh vực trong ngành nông nghiệp có sự tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ năm trước, nếu xét về mặt sản lượng. Ví dụ, về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng tập trung và sản lượng gỗ khai thác trong tháng 5 đã tăng ở mức đáng kể so với cùng kỳ năm 2015. Tuy vậy, điều đáng chú ý là trong khi diện tích rừng trồng tăng lên thì diện tích rừng bị cháy, bị phá cũng tăng mạnh so với năm 2015.
Về thủy sản, sản lượng thủy sản trong 5 tháng đầu năm ước tính tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhưng TCTK cũng cho biết ngành này đối mặt với nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng, môi trường nước biến đổi gây dịch bệnh và cá chết hàng loạt ở miền Trung làm sức mua chững lại, sản phẩm khai thác khó tiêu thụ…
Trong công nghiệp, chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức 9,4% đạt được trong 5 tháng đầu năm 2015. Riêng ngành khai khoáng lại giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2015.
Giá sản xuất cũng tăng chậm hoặc giảm sút
Đáng chú ý là trong khi sản lượng chung của nền kinh tế tăng chậm hoặc giảm sút thì giá cả của nhiều nhóm hàng hóa cũng tăng chậm, thậm chí giảm sút so với cùng kỳ năm trước. Ví dụ, theo TCTK, chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản bình quân 6 tháng đầu năm lại có mức giảm 0,46% so với cùng kỳ năm 2015. Trong khi đó, chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp bình quân sáu cũng giảm 1,15% so với cùng kỳ. Ngay cả chỉ số giá nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo bình quân sáu tháng vẫn giảm 0,54% so với cùng kỳ.
Điểm sáng hiếm hoi trong nền kinh tế 6 tháng đầu năm là ngành dịch vụ, với chỉ số giá sản xuất bình quân sáu tháng tăng 1,98% so với cùng kỳ.
Do cả sản lượng lẫn giá bán của nhiều ngành trong nền kinh tế nửa đầu năm nay đều chững lại hoặc giảm sút so với cùng kỳ năm trước nên có thể nói rằng giá trị thặng dư tạo ra trong nền kinh tế trong nửa đầu năm nay nếu có tăng so với năm trước thì cũng chỉ ở mức khá khiêm tốn, đặc biệt nếu tính thêm yếu tố lạm phát làm tăng giá sản xuất của nhiều hàng hóa và dịch vụ.
Nói cách khác, nếu xét riêng về mặt tăng trưởng sản lượng (và coi giá bán là cố định, theo giá so sánh của năm 2010) thì có thể GDP vẫn tăng trưởng ở một mức độ khả quan nào đó. Nhưng nếu xét về giá trị thặng dư (là tích số của sản lượng và giá bán loại trừ yếu tố lạm phát) thì GDP sẽ phải tăng trưởng ở mức rất khiêm tốn trong nửa đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2015.
Rủi ro đang tăng lên
Bối cảnh bên ngoài đang trở nên rủi ro hơn cho nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Điều đầu tiên phải đề cập đến là sự kiện Brexit, với kết quả là Anh sẽ rút ra khỏi EU. Sự kiện này vốn được nhìn nhận là không có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam trước ngày 24/6 là ngày người dân Anh đi bỏ phiếu quyết định Anh sẽ ra đi hay ở lại với EU. Nhưng thực tế diễn ra mấy ngày sau bỏ phiếu cho thấy Việt Nam cũng bị tác động mạnh ngoài sự tưởng tượng của mọi người, với thị trường chứng khoán tụt giảm mạnh, tỷ giá và đặc biệt là giá vàng cũng tăng vọt. Điều này chứng tỏ tác động của Brexit không chỉ là trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua nhiều kênh lên nền kinh tế Việt Nam, và không thể coi thường, chủ quan với tác động này trong việc hoạch định chính sách kinh tế sắp tới.
Ngoài sự kiện Brexit, được kỳ vọng là sẽ còn tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực sâu rộng hơn nữa lên nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam, thế giới sẽ phải tiếp tục đối mặt với những rủi ro hiện hữu và đang tăng lên về mức độ như chính sách lãi suất âm của nhiều quốc gia như Nhật và châu Âu, bầu cử Tổng thống Mỹ, và đặc biệt là quả bom nợ Trung Quốc đang chầu trực chờ nổ.

Ở trong nước, dư địa huy động các nguồn lực tăng trưởng đã trở nên ngày càng hạn hẹp và đặt Việt Nam vào thế nếu cố gắng huy động hơn nữa thì sẽ phải đánh đổi lấy rủi ro đổ vỡ kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể để hạ lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng nhằm bù đắp cho những diễn biến bất lợi trong nửa đầu năm nay. Nhưng chính sách tiền tệ nới lỏng đang làm tăng áp lực lạm phát, với chỉ số giá tiêu dùng CPI đã tăng 1,72% 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2015. Tất nhiên, cũng có nhiều người lập luận rằng mức này vẫn còn khá an toàn vì mục tiêu lạm phát được Quốc hội đề ra cho Chính phủ là dưới 5% trong cả năm nay. Nhưng cần lưu ý rằng chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ có tác động với một độ trễ lên lạm phát, nên nếu chính sách tiền tệ tiếp tục được nới lỏng bất cẩn trong nửa năm còn lại của năm nay thì lạm phát có thể sẽ bùng nổ mạnh ngay từ đầu năm sau.


Thông thường, khi chính sách tiền tệ còn ít dư địa thì chính sách tài khóa sẽ được phát huy để tạo động lực cho tăng trưởng. Nhưng trong trường hợp của Việt Nam thì điều này hầu như xem ra là không tưởng hiện nay, với việc Chính phủ đảm bảo nguồn huy động trả nợ vay trong và ngoài nước để khống chế mức nợ công không tăng lên đã là một thành công, chứ chưa dám nói đến huy động vốn để chi cho đầu tư và phát triển.

Nguồn động lực đến từ FDI cũng chứa đựng nhiều bất trắc hơn, với nhiều dự án FDI đang bị soi xét trong cái nhìn hoài nghi của dư luận từ góc độ an ninh, môi trường, trốn thuế, chuyển giá, không thực hiện nghĩa vụ nghiêm túc với người lao động... Đó là chưa kể bản thân nhà đầu tư FDI cũng sẽ phải thận trọng hơn trong việc bỏ vốn ra nước ngoài khi mà rủi ro cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang tăng lên.


Trong khi đó, một cú hích quan trọng cho tăng trưởng kinh tế là cải cách thể chế và chất lượng hoạt động của Chính phủ đang phải đối mặt với nhiều rào cản mới. Mặc dù Chính phủ mới đã và đang hạ quyết tâm cải cách thể chế, xóa bỏ các trói buộc cho doanh nghiệp và người dân, nhưng trên thực tế người ta lại đang tìm nhiều cách để cản trở tiến trình này một cách vô tình hay hữu ý. Ví dụ rõ nét và đang gây quan ngại lớn hiện nay là tình trạng nghị định hóa các điều kiện kinh doanh (mà nhiều người cho là trái luật, vi hiến) trong các thông tư của các bộ trước đây để hợp pháp hóa các điều kiện kinh doanh này, mà về bản chất chỉ là lưu giữ quyền lợi cho các nhóm lợi ích chứ không phải để tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển lành mạnh.


Tóm lại, cho dù con số tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam nửa đầu năm nay có “đẹp” đến bao nhiêu chăng nữa thì các mục tiêu tăng trưởng và phát triển mà Việt Nam đã đặt ra từ đầu năm cho cả năm nay và năm sau nữa đã và đang ngày càng phải đối mặt với nhiều rủi ro và bất trắc hơn, và trở nên khó hiện thực hóa hơn. Giải pháp khả thi hầu như duy nhất của Việt Nam là phải tích cực cải cách, cải cách và cải cách trên mọi mặt để nền kinh tế trở nên linh hoạt hơn, cạnh tranh hơn trong bối cảnh ngày càng không thuận lợi của môi trường quốc tế.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).