Saturday 2 July 2016

Tăng trưởng sẽ chịu nhiều áp lực hơn (Bài đăng trên TBKTSG, 3/7/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/148285/Tang-truong-se-chiu-nhieu-ap-luc-hon.html


Bài này được viết ngay trước thời điểm Tổng cục Thống kê (TCTK) dự kiến công bố số liệu kinh tế 6 tháng đầu năm nên nội dung chỉ tập trung vào triển vọng tăng trưởng trong 6 tháng cuối năm dựa trên phân tích những rủi ro mà nền kinh tế đang và sẽ phải đối mặt, mặc dù tăng trưởng 6 tháng đầu năm khi được công bố có thể vẫn là một con số khả quan nào đó so với cùng kỳ năm trước.
Sử dụng số liệu thống kê do TCTK công bố cho 5 tháng đầu năm (riêng lạm phát đã có số liệu tháng 6), có thể thấy một số diễn biến đáng chú ý sau.
Sản lượng tăng chậm hoặc giảm sút
Trong chăn nuôi, trồng trọt, tình hình chung cho thấy sản xuất đều có sự tụt giảm từ vừa phải đến đáng kể trên hầu như mọi chỉ số, từ gieo cấy, thu hoạch lúa đông xuân, gieo sạ lúa hè thu, đến gieo trồng hoa mầu và chăn nuôi trâu bò. Về nguyên nhân thì có lẽ chủ yếu do nguyên nhân khách quan như thời tiết rét đậm, rét hại, sâu bệnh, đến nắng nóng, hạn hán, khô hạn và xâm nhập mặn. 
Lâm nghiệp và thủy sản là 2 lĩnh vực trong ngành nông nghiệp có sự tăng trưởng nhẹ so với cùng kỳ năm trước, nếu xét về mặt sản lượng. Ví dụ, về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng tập trung và sản lượng gỗ khai thác trong tháng 5 đã tăng ở mức đáng kể so với cùng kỳ năm 2015. Tuy vậy, điều đáng chú ý là trong khi diện tích rừng trồng tăng lên thì diện tích rừng bị cháy, bị phá cũng tăng mạnh so với năm 2015.
Về thủy sản, sản lượng thủy sản trong 5 tháng đầu năm ước tính tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhưng TCTK cũng cho biết ngành này đối mặt với nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng, môi trường nước biến đổi gây dịch bệnh và cá chết hàng loạt ở miền Trung làm sức mua chững lại, sản phẩm khai thác khó tiêu thụ…
Trong công nghiệp, chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức 9,4% đạt được trong 5 tháng đầu năm 2015. Riêng ngành khai khoáng lại giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2015.
Giá sản xuất cũng tăng chậm hoặc giảm sút
Đáng chú ý là trong khi sản lượng chung của nền kinh tế tăng chậm hoặc giảm sút thì giá cả của nhiều nhóm hàng hóa cũng tăng chậm, thậm chí giảm sút so với cùng kỳ năm trước. Ví dụ, theo TCTK, chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản bình quân 6 tháng đầu năm lại có mức giảm 0,46% so với cùng kỳ năm 2015. Trong khi đó, chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp bình quân sáu cũng giảm 1,15% so với cùng kỳ. Ngay cả chỉ số giá nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến chế tạo bình quân sáu tháng vẫn giảm 0,54% so với cùng kỳ.
Điểm sáng hiếm hoi trong nền kinh tế 6 tháng đầu năm là ngành dịch vụ, với chỉ số giá sản xuất bình quân sáu tháng tăng 1,98% so với cùng kỳ.
Do cả sản lượng lẫn giá bán của nhiều ngành trong nền kinh tế nửa đầu năm nay đều chững lại hoặc giảm sút so với cùng kỳ năm trước nên có thể nói rằng giá trị thặng dư tạo ra trong nền kinh tế trong nửa đầu năm nay nếu có tăng so với năm trước thì cũng chỉ ở mức khá khiêm tốn, đặc biệt nếu tính thêm yếu tố lạm phát làm tăng giá sản xuất của nhiều hàng hóa và dịch vụ.
Nói cách khác, nếu xét riêng về mặt tăng trưởng sản lượng (và coi giá bán là cố định, theo giá so sánh của năm 2010) thì có thể GDP vẫn tăng trưởng ở một mức độ khả quan nào đó. Nhưng nếu xét về giá trị thặng dư (là tích số của sản lượng và giá bán loại trừ yếu tố lạm phát) thì GDP sẽ phải tăng trưởng ở mức rất khiêm tốn trong nửa đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2015.
Rủi ro đang tăng lên
Bối cảnh bên ngoài đang trở nên rủi ro hơn cho nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Điều đầu tiên phải đề cập đến là sự kiện Brexit, với kết quả là Anh sẽ rút ra khỏi EU. Sự kiện này vốn được nhìn nhận là không có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam trước ngày 24/6 là ngày người dân Anh đi bỏ phiếu quyết định Anh sẽ ra đi hay ở lại với EU. Nhưng thực tế diễn ra mấy ngày sau bỏ phiếu cho thấy Việt Nam cũng bị tác động mạnh ngoài sự tưởng tượng của mọi người, với thị trường chứng khoán tụt giảm mạnh, tỷ giá và đặc biệt là giá vàng cũng tăng vọt. Điều này chứng tỏ tác động của Brexit không chỉ là trực tiếp mà còn gián tiếp thông qua nhiều kênh lên nền kinh tế Việt Nam, và không thể coi thường, chủ quan với tác động này trong việc hoạch định chính sách kinh tế sắp tới.
Ngoài sự kiện Brexit, được kỳ vọng là sẽ còn tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực sâu rộng hơn nữa lên nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam, thế giới sẽ phải tiếp tục đối mặt với những rủi ro hiện hữu và đang tăng lên về mức độ như chính sách lãi suất âm của nhiều quốc gia như Nhật và châu Âu, bầu cử Tổng thống Mỹ, và đặc biệt là quả bom nợ Trung Quốc đang chầu trực chờ nổ.

Ở trong nước, dư địa huy động các nguồn lực tăng trưởng đã trở nên ngày càng hạn hẹp và đặt Việt Nam vào thế nếu cố gắng huy động hơn nữa thì sẽ phải đánh đổi lấy rủi ro đổ vỡ kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể để hạ lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng nhằm bù đắp cho những diễn biến bất lợi trong nửa đầu năm nay. Nhưng chính sách tiền tệ nới lỏng đang làm tăng áp lực lạm phát, với chỉ số giá tiêu dùng CPI đã tăng 1,72% 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm 2015. Tất nhiên, cũng có nhiều người lập luận rằng mức này vẫn còn khá an toàn vì mục tiêu lạm phát được Quốc hội đề ra cho Chính phủ là dưới 5% trong cả năm nay. Nhưng cần lưu ý rằng chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ có tác động với một độ trễ lên lạm phát, nên nếu chính sách tiền tệ tiếp tục được nới lỏng bất cẩn trong nửa năm còn lại của năm nay thì lạm phát có thể sẽ bùng nổ mạnh ngay từ đầu năm sau.


Thông thường, khi chính sách tiền tệ còn ít dư địa thì chính sách tài khóa sẽ được phát huy để tạo động lực cho tăng trưởng. Nhưng trong trường hợp của Việt Nam thì điều này hầu như xem ra là không tưởng hiện nay, với việc Chính phủ đảm bảo nguồn huy động trả nợ vay trong và ngoài nước để khống chế mức nợ công không tăng lên đã là một thành công, chứ chưa dám nói đến huy động vốn để chi cho đầu tư và phát triển.

Nguồn động lực đến từ FDI cũng chứa đựng nhiều bất trắc hơn, với nhiều dự án FDI đang bị soi xét trong cái nhìn hoài nghi của dư luận từ góc độ an ninh, môi trường, trốn thuế, chuyển giá, không thực hiện nghĩa vụ nghiêm túc với người lao động... Đó là chưa kể bản thân nhà đầu tư FDI cũng sẽ phải thận trọng hơn trong việc bỏ vốn ra nước ngoài khi mà rủi ro cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang tăng lên.


Trong khi đó, một cú hích quan trọng cho tăng trưởng kinh tế là cải cách thể chế và chất lượng hoạt động của Chính phủ đang phải đối mặt với nhiều rào cản mới. Mặc dù Chính phủ mới đã và đang hạ quyết tâm cải cách thể chế, xóa bỏ các trói buộc cho doanh nghiệp và người dân, nhưng trên thực tế người ta lại đang tìm nhiều cách để cản trở tiến trình này một cách vô tình hay hữu ý. Ví dụ rõ nét và đang gây quan ngại lớn hiện nay là tình trạng nghị định hóa các điều kiện kinh doanh (mà nhiều người cho là trái luật, vi hiến) trong các thông tư của các bộ trước đây để hợp pháp hóa các điều kiện kinh doanh này, mà về bản chất chỉ là lưu giữ quyền lợi cho các nhóm lợi ích chứ không phải để tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển lành mạnh.


Tóm lại, cho dù con số tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam nửa đầu năm nay có “đẹp” đến bao nhiêu chăng nữa thì các mục tiêu tăng trưởng và phát triển mà Việt Nam đã đặt ra từ đầu năm cho cả năm nay và năm sau nữa đã và đang ngày càng phải đối mặt với nhiều rủi ro và bất trắc hơn, và trở nên khó hiện thực hóa hơn. Giải pháp khả thi hầu như duy nhất của Việt Nam là phải tích cực cải cách, cải cách và cải cách trên mọi mặt để nền kinh tế trở nên linh hoạt hơn, cạnh tranh hơn trong bối cảnh ngày càng không thuận lợi của môi trường quốc tế.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).