http://www.thesaigontimes.vn/149048/Uy-ban-khong-phai-la-loi-giai-phu-hop.html
Mới đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà trực tiếp là Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã hoàn thành dự thảo thành lập Ủy ban quản
lý, giám sát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Theo dự thảo, Uỷ ban này là cơ quan trực thuộc Chính phủ, do Chính phủ thành lập, giúp Chính phủ quản
lý giám sát toàn bộ danh mục tài sản, vốn của Nhà nước tại 30 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là các
tập đoàn, tổng công ty, bao gồm cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
nước (SCIC).
Về mô hình tổ chức và hoạt động của Ủy ban này, được biết nó được hình
thành dựa trên tham khảo mô hình hoạt động của các cơ quan chuyên trách tương
tự ở nhiều nước trên thế giới, trong đó thường được trích dẫn là Temasek
Holdings của Singapore.
Mô hình Temasek Holdings
Temasek Holdings là cỗ máy đầu tư cho Chính phủ
Singapore, với Chính phủ là cổ đông chi phối. Nó chịu trách nhiệm trực tiếp với
Tổng thống nên phản ánh thuộc tính sở hữu nhà nước. Đồng thời, nó có chức năng
như một công ty mẹ của nhiều công ty có ít nhất 20% cổ phần nắm giữ bởi Chính
phủ.
Tuy nhiên, Temasek về danh nghĩa là một công ty tư nhân
trách nhiệm hữu hạn, được thành lập năm 1974 để nắm giữ cổ phần trong các công
ty mà trước đó được nắm giữ trực tiếp bởi Chính phủ Singapore. Xét về cơ cấu
chủ sở hữu và mục đích kinh tế khi thành lập, Temasek thực chất là một tổ chức
đầu tư tư nhân.
Tư cách là một công ty tư nhân của Temasek là để đảm bảo việc quản lý vốn
nhà nước tại các công ty thuần túy dựa trên góc độ thương mại, chỉ theo đuổi lợi
nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông, trong đó có Chính phủ, nhờ
đó giúp Chính phủ tách biệt chức năng quản lý nhà nước, điều tiết thị trường với
chức năng làm kinh tế.
Tuy là một công ty đầu tư tư nhân, thuộc tính sở hữu nhà nước của Temasek
được thể hiện dưới 3 khía cạnh: (1) Tổng thống phê chuẩn bổ nhiệm các vị trí chủ
chốt như thành viên Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc; (2) ngân quỹ cho hoạt
động và các giao dịch không được lấy từ nguồn dự trữ có từ trước khi thành lập Chính
phủ nhiệm kỳ hiện tại, trừ trường hợp được Tổng thống phê duyệt; và (3) Các
công ty và tổ chức Chính phủ phải thực thi các chuẩn mực quản trị tài chính để
bảo đảm sự quản trị đúng đắn và quản lý hữu hiệu danh mục tài sản. Ngoài 3 khía
cạnh này, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Temasek có toàn quyền và chịu trách
nhiệm hoàn toàn trong quyết định đầu tư và kinh doanh, phản ánh thuộc tính sở hữu
tư nhân.
Có thể nói, mô hình hoạt động như một công ty mẹ của Temasek đã và đang tiếp
tục thành công là nhờ có phương hướng hoạt động rõ ràng, tách bạch khỏi can thiệp
chính trị, và minh bạch, với nền tảng quản trị tiến bộ. Đây cũng chính là định
hướng chung cho việc cải cách các DNNN ở mọi nước. Ngoài ra, một điểm quyết định
đến sự thành công của mô hình Temasek phải có cả một hệ thống quản trị trong sạch
và đúng đắn, từ thượng tầng là Chính phủ và các bộ ngành quản lý chức năng đến
hạ tầng là các doanh nghiệp.
Chưa tương thích với Việt Nam
Để mô hình Temasek có thể áp dụng vào Việt Nam, trước tiên cần phải xem xét
xem liệu điều kiện văn hóa, chính trị, xã hội của Việt Nam có dung dưỡng hay lại
đào thải mô hình này. Không khó để thấy môi trường văn hóa quản trị đúng đắn và
trong sạch ở Singapore mà Temasek đang hoạt động là hoàn toàn trái ngược với
môi trường tương ứng ở Việt Nam. Singapore được xếp hạng thứ 8 trong bảng xếp hạng
mức độ tham nhũng (Corruption Perceptions Index) năm 2015, trong khi thứ hạng của
Việt Nam là 112 trên tổng số 167 nước được xếp hạng. Môi trường kinh doanh bị vẩn
đục bởi tham nhũng cao, bất minh bạch như vậy hiển nhiên là một trong những vật
cản lớn trong việc áp dụng mô hình Temasek ở Việt Nam.
Điều quan trọng cần xem xét tiếp theo là phiên bản Việt Nam của Temasek, tức
Ủy ban trên, có được hoàn toàn độc lập với các can thiệp chính trị hay không.
Theo dự thảo Nghị định liên quan, Ủy ban này trực thuộc Chính phủ và chịu sự quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ
theo ngành. Ngoài ra, ủy
ban cũng trực tiếp thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về
tái cơ cấu, thoái vốn, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước.
Như vậy, không những là một cơ quan quản lý của nhà nước chứ không phải là
một công ty tư nhân như Temasek, Ủy ban này, có thể nói, vẫn chỉ là cánh tay nối
dài của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, thậm chí của các bộ và cơ quan ngang bộ. Với
tư cách “chịu sự quản lý” của nhiều tầng lớp, tổ chức như vậy thì khó có thể
nói hoạt động của Ủy ban này có thể độc lập với các can thiệp chính trị, mang
tính mệnh lệnh, và do đó cũng khó có thể tránh được tình trạng là nó phải tiếp
tục, ví dụ, rót vốn vào những DNNN, những dự án không có hiệu quả về mặt thương
mại nhưng lại là những doanh nghiệp, những dự án là
“chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”.
Xét về phương hướng hoạt động, Ủy ban trên ngoài nhiệm vụ
tối đa hóa hiệu quả đầu tư nhà nước tại các doanh nghiệp như của Temasek, thì
còn phải ôm đồm thêm nhiều nhiệm vụ khác, trong đó có nhiệm vụ tái cơ cấu,
thoái vốn, sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN. Như vậy, nó trở thành
một cơ quan đa nhiệm nên, về nguyên tắc, sẽ không thể giỏi trong từng lĩnh vực
mà nó phải đảm nhận, đồng thời cũng không tránh khỏi sự lẫn lộn, mâu thuẫn, bài
trừ lẫn nhau giữa các nhiệm vụ, các lĩnh vực. Nói cách khác, phiên bản Temasek ở
Việt Nam đã vi phạm một trong những nguyên tắc chính của việc cải cách DNNN là
phải có phương hướng hoạt động rõ ràng.
Xét về văn hóa quản trị, Ủy ban trên cũng khó có thể tái
hiện được nền quản trị doanh nghiệp lành mạnh và tiến bộ như của Temasek ở Việt
Nam. Với Temasek, các phương pháp, chuẩn mực quản trị tiến bộ, tiên tiến đều được
áp dụng, với Hội đồng quản trị và ban giám đốc gồm nhiều thành viên độc lập,
không mang quốc tịch Singapore, nhiều người vốn là những nhà quản lý cấp cao của
nhiều công ty lớn. Các thông tin về hoạt động và tài chính của Temasek được
công bố rất đầy đủ và dễ dàng tương tác và tiếp cận bởi công chúng, cho dù nhiều
trong số này không bị yêu cầu phải công bố.
Ngược lại, ở Việt Nam, văn hóa quản trị được đặc trưng bởi
thứ văn hóa “đúng quy trình” mà chẳng mấy ai biết được cái “quy trình” này là
cái gì. Nếu có gì đó bị phát hiện là sai, bị phê phán, chỉ trích thì người ta đều
dễ dàng dùng đến “bùa hộ mệnh” là “đúng quy trình”.
Thêm nữa, về mặt nhân sự, có lẽ sẽ ngược lại với Temasek,
Ủy ban trên sẽ lại gồm những nhân sự lấy từ các bộ, các cơ quan quản lý nhà
nước, các cơ quan hành chính… tức là những người làm cán bộ, viên chức giỏi hơn
là làm nhà quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư chuyên nghiệp mang tầm quốc tế. Vẫn
những lối tư duy đó, những ràng buộc về “cơ chế” hiện tại, và vẫn tinh thần coi
tài sản nhà nước là tài sản chung theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Có khác
chăng chỉ là sự quy tụ về “chung một mái nhà” của những con người này, thay vì
nằm rải rác ở khắp các nơi mà thôi.
Cũng không làm
giảm thất thoát tài sản nhà nước
Lý giải về sự cần thiết thành lập Ủy ban trên, ông Nguyễn
Đình Cung, Viện trưởng CIEM cho rằng, đại ý, Việt Nam có tình trạng sử dụng lãng
phí, làm thất thoát lớn tài sản công mà không tìm thấy ai chịu trách nhiệm cả.
Điều này được thể hiện qua hàng loạt dự án “đắp chiếu” như Xơ sợi Đình Vũ, Phân
đạm Ninh Bình, Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy ethanol… làm mất vốn Nhà nước rất
lớn nhưng đến nay chưa ai bị xử lý. Ủy ban trên ra đời, theo kỳ vọng, sẽ ngăn
được tình trạng vốn nhà nước đang bị hao mòn như hiện nay.
Như trên đã phân tích, Ủy ban trên dù có mang dáng hình
của Temasek nhưng không thể hoạt động như kiểu và chất lượng của Temasek được.
Sự ra đời của Ủy ban này cũng không giúp làm giảm thất thoát, lãng phí tài sản
nhà nước vì vấn đề không nằm ở chỗ quy về một mối các DNNN hay để chúng nằm ở
nơi hiện tại.
Chừng nào còn sự bất minh bạch trong quản trị doanh
nghiệp, còn sự can thiệp của một quan chức, một cơ quan có thẩm quyền nào đó,
còn sự lẩn trốn trách nhiệm dưới chiêu bài “đúng quy trình”, “là quyết định của
tập thể”, “là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”, là “thực hiện theo quy
hoạch phát triển”, và “do cơ chế”, hoặc là do “phát huy tinh thần sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm” mà một quan chức nào đó đã chỉ đạo cho doanh nghiệp, cho địa
phương thực hiện trong lúc hứng khởi… thì chừng đó vẫn sẽ tiếp tục còn những doanh
nghiệp “đắp chiếu”, thất thoát hàng nghìn tỷ đồng, mà vẫn chẳng vạch mặt, chỉ
tên được ai phải chịu trách nhiệm.
Vậy thì Ủy ban trên nếu có được cho ra đời thì bất quá
chỉ như là một sự phóng to SCIC lên một quy mô mới lớn hơn nhiều. Vì các nguyên
nhân để xảy ra những dự án “đắp chiếu” vẫn còn nguyên đó khi Ủy ban này ra đời,
nên Ủy ban này sẽ lại na ná như một VAMC (Công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng Việt Nam), trở thành nơi quản lý gom về một mối các dự án “đắp
chiếu” này, thay vì để chúng nằm lại ở các bộ.
Tương tự như vậy, nếu Ủy ban trên trực tiếp quyết định sử
dụng vốn đầu tư tại DNNN để đầu tư vào đâu, ngành nào, phân bổ bao nhiêu vốn…
như dự thảo hiện nay thì về bản chất cũng chỉ là tương tự như việc thực hiện
bởi SCIC hoặc các bộ hiện nay.
Nói cách khác, giải pháp cho ra đời Ủy ban trên là lời
giải lạc đề cho chuyện thất thoát, lãng phí, hoạt động không có hiệu quả của
DNNN, của đầu tư từ vốn nhà nước mà không quy trách nhiệm cho ai được!
No comments:
Post a Comment