Friday 26 August 2016

Xổ số - Người nghèo càng nghèo thêm (Bài đăng trên TBKTSG, 26/8/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/150459/Xo-so---nguoi-ngheo-cang-ngheo-them.html

Bộ Tài chính mới đây cho biết sau một tháng vận hành vận hành thành công hệ thống kinh doanh xổ số điện toán tại thị trường TP HCM, Công ty Xổ số điện toán Việt Nam (Vietlott) thuộc Bộ Tài chính đang chuẩn bị tổ chức kinh doanh xổ số điện toán tại 11 tỉnh và thành phố khác từ nay đến đầu năm 2017. Với đà này, có lẽ chẳng lâu nữa loại hình xổ số này sẽ phủ khắp cả nước.

Cũng theo Bộ Tài chính, Vietlott góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách để có nguồn đầu tư cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, an sinh và phúc lợi xã hội. Điều này phù hợp với thông lệ chung của thế giới là hoạt động kinh doanh xổ số nhằm thu hút nguồn tiền vui chơi giải trí của người dân, được đầu tư trở lại cho người dân.

Như vậy, xem ra xổ số nói chung và xổ số điện toán nói riêng chỉ được nhìn nhận từ khía cạnh tích cực, và vì thế được công nhận và được cổ xúy để ngày càng mở rộng quy mô và phạm vi trên cả nước mà đã (cố tình) bỏ qua hậu quả tiêu cực về kinh tế và xã hội có thể gây ra bởi xổ số.

Do Việt Nam chưa từng công bố những số liệu cần thiết cũng như đã có những nghiên cứu khoa học liên quan đến xổ số và tác động của nó nên bài này sử dụng một số số liệu và phân tích liên quan đến xổ số ở Mỹ để minh họa tác động tiêu cực có thể có của xổ số ở Việt Nam.

Xổ số làm bần cùng hóa người thu nhập thấp

Theo NBC,[1] các nhà nghiên cứu đã chỉ ra bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ mật thiết theo chiều thuận giữa doanh thu xổ số với tỷ lệ nghèo đói ở Mỹ. Nói cách khác, người mua xổ số thuộc nhóm có thu nhập thấp thường là những người mua xổ số trung thành và đông đảo nhất. Hoàn cảnh càng khó khăn, càng tuyệt vọng thì những người này càng lao vào xổ số để hy vọng đổi đời để rồi càng rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng hơn (vì chỉ có một số rất ít người trúng thưởng đáng kể). Một nghiên cứu năm 2010 cho thấy các gia đình nghèo, có thu tổng thu nhập dưới 13 ngàn đô la/năm, lại chi trung bình tới 645 đô la, tức 9% thu nhập của họ để mua xổ số.[2]

Hơn nữa, thống kê cũng cho thấy một thực tế đáng ngại là người nghèo cắt giảm những nhu cầu thiết yếu của mình để lấy tiền mua xổ số. Như đồ thị dưới đây minh họa, các gia đình thu nhập thấp ở Mỹ tính trung bình chi 162,2 đô la cho xổ số thì họ cắt giảm tương ứng các nhu cầu khác (không liên quan đến cờ bạc), trong đó đáng kể nhất là các nhu cầu thiết yếu như chi phí nhà ở (72,61 đô la), quần áo (10,58 đô la), ăn ở nhà (8,71 đô la), và giáo dục (5,18 đô la). 


Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, lợi nhuận từ xổ số được dùng để bù đắp phần hụt thu từ thuế thu nhập và thuế tiêu thụ, hoặc là đệm đỡ để cắt giảm các loại thuế này khi chính quyền mong muốn (ví dụ, vì động cơ chính trị, lấy lá phiếu bầu). Bằng cách này, gánh nặng thu ngân sách được “nhường” thêm cho người nghèo và gia đình họ gánh thay cho những cá nhân và doanh nghiệp có thu nhập cao hơn và có khả năng đóng góp nhiều hơn.

Như vậy, xổ số đã cả trực tiếp và gián tiếp làm bần cùng hóa, suy giảm hơn nữa chất lượng cuộc sống của tầng lớp thu nhập thấp trong xã hội. Đây là một điều nghịch lý vì mục đích tồn tại và sứ mệnh của Nhà nước là để bảo vệ phúc lợi của dân chúng, đặc biệt là những nhóm người dễ bị tổn thương, nhưng sứ mệnh và mục đích này lại được thực hiện một phần thông qua kinh doanh xổ số vốn có tác dụng ngược lại.

Chi phí chiếm phần lớn doanh thu xổ số

Một trong những lý do để nhiều người ủng hộ tăng cường hơn nữa kinh doanh xổ số là nhận thức cho rằng xổ số đóng góp đáng kể cho ngân sách. Nhưng cũng theo NBC, cứ mỗi đô la thu được từ bán xổ số ở mỗi bang ở Mỹ thì, tính trung bình, chi phí đã chiếm đến 72 xu. Trong đó, 60 xu được trả cho người trúng thưởng. Một phần khác dùng trả chi phí vận hành hệ thống xổ số. Phần còn lại của 1 đô la này được nộp vào ngân sách của bang. Tùy từng bang mà phần nộp ngân sách lớn hay nhỏ, nhưng có bang như Rhode Island chỉ thu được 11 xu cho mỗi đô la doanh thu xổ số năm 2012. Ngược lại, cũng có bang như Oregon, ngân sách thu được tới 50 xu trên mỗi đô la doanh thu xổ số.

Ở Việt Nam, không rõ ngân sách trung ương và địa phương đã thu được bao nhiêu từ kinh doanh xổ số. Nhưng nếu cứ nhìn vào trường hợp ở Mỹ thì có thể thấy phần nộp vào ngân sách từ doanh thu xổ số có lẽ không lớn như người ta tưởng, nhất là khi tính thêm những yếu tố tiêu cực làm đội chi phí lên như tiền lương của nhân viên và lãnh đạo các công ty xổ số đứng ở mức cao một cách bất hợp lý trong mặt bằng lương ở Việt Nam nếu xét đến tính chất của ngành nghề này.

Giải pháp nào?

Xổ số được tuyên truyền và nhận thức như một loại hình giải trí tự nguyện và phục vụ cho những mục đích tốt đẹp. Nhưng ngoài chuyện những đồng tiền thu từ xổ số nộp vào ngân sách có thực sự phục vụ cho những mục đích tốt đẹp hay không hay lại chui vào xe sang và trụ sở đẹp cho quan chức, hoặc nằm ở những dự án ngàn tỷ “đắp chiếu” và túi của quan tham, những số liệu thống kê thực tế cho thấy xổ số là một loại thuế trá hình, mang tính bóc lột, đánh nặng lên người nghèo, những người có ít khả năng chống đỡ nhất.

Tuy vậy, giải pháp không phải là dẹp bỏ xổ số vì vẫn có nhu cầu lớn cho loại hình cờ bạc này. Thay vào đó, phải làm cho xổ số trở thành một loại hình cờ bạc không mang tính bóc lột. Trước tiên, Nhà nước cần phải chấm dứt việc kinh doanh của mình, tiến hành tư nhân hóa ngành này vì Nhà nước không thể vừa khoác vai bảo vệ phúc lợi của dân, vừa trực tiếp kinh doanh xổ số để trực tiếp làm bần cùng hóa một bộ phận dân chúng.

Việc này, còn có một lợi ích khác là ngân sách thu nhiều hơn từ xổ số do các doanh nghiệp kinh doanh xổ số phải cạnh tranh nhau mạnh hơn, đồng thời dễ cho Nhà nước điều tiết được ngành này (ví dụ, tránh được các hậu quả do doanh nghiệp được độc quyền).

Nhiều bang ở Mỹ nhằm mục đích tăng phần thu về cho ngân sách từ xổ số đã và đang chuyển giao việc kinh doanh xổ số cho các doanh nghiệp tư nhân, như GTECH, một doanh nghiệp cung cấp hàng loạt dịch vụ liên quan từ hệ thống máy tính đến các điểm bán lẻ xổ số. Doanh nghiệp này được sở hữu bởi Tập đoàn Lottomatica, Ý, là một gã khổng lồ trong ngành cờ bạc thế giới, với hơn 8.000 nhân viên hoạt động trên hơn 50 nước.

Nhờ tư nhân hóa này, tăng tính cạnh tranh, các nhà cung cấp dịch vụ sẽ tìm cách hạ chi phí kinh doanh xổ số, tăng lượng vé số bán ra. Các doanh nghiệp xổ số nhà nước thường không có đủ kỹ năng tối đa hóa lợi nhuận và tăng doanh thu như các doanh nghiệp kinh doanh xổ số tư nhân chuyên nghiệp này.

Ở Việt Nam, trong khi nhà nước vẫn độc quyền kinh doanh trong lĩnh vực xổ số, điều nguy hại hơn là xu hướng liên doanh giữa các doanh nghiệp độc quyền này với doanh nghiệp nước ngoài, như với trường hợp Vietlott. Liên doanh này không nhất thiết tăng được tỷ lệ trích nộp ngân sách (không nhất thiết tăng được hiệu quả hoạt động), trong khi có khả năng làm lợi lớn cho đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp này do triệt để khai thác vị thế độc quyền nhà nước  được pháp luật trao cho doanh nghiệp này. Bởi vậy, tư nhân hóa dịch vụ kinh doanh xổ số sẽ tăng tính cạnh tranh lành mạnh và cải thiện hiệu quả kinh doanh của ngành này ở Việt Nam.

Giải pháp tiếp theo để quản lý ngành kinh doanh xổ số là hạn chế quảng cáo “láo”, sai sự thật. Cũng giống như với kinh doanh thuốc lá và rượu bia, những ngành nghề ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, Nhà nước cần có những quy định về quảng cáo để giảm ảo tưởng tạo bởi các công ty và đại lý xổ số rằng mua xổ số là dễ trúng, dễ đổi đời, dễ làm giàu… làm người mua, nhất là người nghèo, càng lao vào chơi một cách mù quáng.

Cuối cùng,  xổ số về bản chất là một loại cờ bạc, và có một bộ phận người mua thực sự là “con nghiện”. Ví dụ, ở Mỹ, 54% doanh thu xổ số đến từ 5% người mua, tức khoảng 2,5% dân số trưởng thành Mỹ. 1,5% dân số trưởng thành Mỹ được xác định là nghiện cờ bạc, trong đó số nghiện chơi xổ số nhiều hơn nghiện các loại hình cờ bạc khác.[3] Bởi vậy, Nhà nước cần phải bắt buộc trích một phần doanh thu từ xổ số để phục vụ cho các chương trình cai nghiện cờ bạc, trong đó có xổ số.

Saturday 20 August 2016

Để hạn chế chỉ định thầu: Quan trọng là giám sát (Bài đăng trên TBKTSG, 20/8/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/150184/De-han-che-chi-dinh-thau-Quan-trong-la-giam-sat.html

Với Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2014 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu (NĐ63) có hiệu lực thi hành vào ngày 15/8/2014, nhiều người hy vọng tình trạng chỉ định thầu sẽ được giảm thiểu. Tuy vậy, trên thực tế, tình trạng chỉ định thầu thay cho đấu thầu công khai, rộng rãi trong nước và quốc tế vẫn còn tràn lan.
Cụ thể, theo tổng hợp của Bộ KH&ĐT, trong các năm 2010-2014, tỷ lệ gói thầu áp dụng chỉ định thầu trên tổng số gói thầu thực hiện trong năm đứng ở mức từ 73% đến 75%. Sang năm 2015, tức là hơn một năm sau ngày Luật Đấu thầu và NĐ63 có hiệu lực, trong tổng số 153.955 gói thầu được thực hiện theo Luật đấu thầu 2013 trên cả nước, vẫn có tới 105.472 gói đấu thầu là theo hình thức chỉ định thầu, chiếm 69% tổng số gói thầu thực hiện cả năm.
Không phải tại luật
Cần nói ngay rằng nguyên nhân cho tình trạng chỉ định thầu vẫn còn tràn lan như nói ở trên không phải là do thiếu luật hay luật yếu. Nếu so sánh các điều khoản quy định về chỉ định thầu trong Luật Đấu thầu và NĐ63 với các điều khoản luật tương tự của các nước phát triển như Bắc Mỹ và châu Âu thì có thể thấy các điều khoản luật lệ tương ứng ở Việt Nam hoàn toàn đầy đủ và rõ ràng.
Chẳng hạn, các trường hợp được áp dụng chỉ định thầu ở Canada là các trường hợp: (1) khẩn cấp, các cơ quan Chính phủ cần mua ngay được các hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe, phúc lợi hay an toàn công cộng; và (2) hàng hóa và dịch vụ cần mua từ nhà cung cấp được chỉ định thuộc chủng loại đặc thù, đáp ứng được yêu cẩu của Nhà nước.
Ở Việt Nam, pháp luật thậm chí còn quy định rõ ràng, chi tiết hơn các điều kiện được chỉ định thầu, gồm (1)  Gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả gây ra do sự cố bất khả kháng…; (2) Gói thầu cấp bách cần triển khai nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới quốc gia, hải đảo; (3) Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; (4) Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế xây dựng được chỉ định cho tác giả của thiết kế kiến trúc công trình trúng tuyển hoặc được tuyển chọn khi tác giả có đủ điều kiện năng lực theo quy định; (5) Gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng..; và (6) Gói thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu trong hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Cũng không phải riêng Việt Nam
Cần biết thêm một sự thực nữa là chuyện chỉ định thầu tràn lan không chỉ có riêng ở Việt Nam mà còn có cả ở những nước phát triển, ví dụ Mỹ. Theo báo The Washington Post,[1] năm 2009 Tổng thống Obama nói với các cơ quan Chính phủ rằng việc phụ thuộc vào các đơn đặt hàng không qua đấu thầu “tạo ra rủi ro rằng tiền thuế sẽ bị chi cho những hợp đồng lãng phí, không hiệu quả, dễ bị lạm dụng, hoặc không đáp ứng được nhu cầu của Chính phủ Liên bang hoặc lợi ích của người nộp thuế ở Mỹ”.
Nhưng trong vòng 4 năm sau đó, chính quyền của ông Obama đã chi nhiều tiền hơn cho các hợp đồng loại này so với các chính quyền trước đó. Cụ thể, thống kê cho thấy các cơ quan Chính phủ đã chi trả 115 tỷ đô la cho các hợp đồng chỉ định thầu năm 2012, tăng tới 8,9% so với năm 2009. Đáng chú ý hơn, sự tăng này xảy ra trong bối cảnh tổng giá trị thầu của các cơ quan Chính phủ lại giảm đi 5% so với năm 2009. Điều này có nghĩa là mặc dù chiếc bánh (tổng số gọi thầu) bé lại nhưng con số về chỉ định thầu lại tăng lên – một sự kết hợp đáng lo ngại!
Và cũng tương đồng về lý do chỉ định thầu
Những lý do mà các cơ quan Chính phủ ở Mỹ thích chỉ định thầu, theo The Washington Post, là các cơ quan này thường chỉ xem xét đến duy nhất một công ty cung cấp hàng hóa và dịch vụ khi họ cần hành động khẩn cấp, hoặc nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ có chuyên môn đặc thù, hoặc các cơ quan Chính phủ chỉ muốn làm việc với các nhà cung cấp có năng lực đã được thực tế kiểm chứng trong các hợp đồng với họ trước đây. Với các cơ quan Chính phủ, những hợp đồng chỉ định thầu như thế này sẽ tiết kiệm được thời gian cần thiết để mua hàng hóa và dịch vụ, mặc dù họ biết rõ rằng các hợp đồng loại này do không phải cạnh tranh nên thường bị đội giá.
Ở Việt Nam, lý do được đưa ra để biện minh cho việc chỉ định thầu là cũng khá tương đồng như ở Mỹ, cụ thể thường là do tính “cấp bách” của dự án, hay do tính “đặc thù” của hàng hóa và dịch vụ mà các cơ quan mời thầu ở Việt Nam cần. Mặc dù thực tế thì ở Việt Nam có phần “tệ” hơn ở Mỹ. Nhiều dự án “cấp bách” nhưng sau khi đã được giải ngân thì lại được triển khai chậm chạp mà chẳng ai hề hấn gì; hay các dự án cung cấp sản phẩm và dịch vụ mang tính “đặc thù” nhưng có thể dễ dàng tìm được nhiều nhà cung cấp khác trong nước và quốc tế.
Vậy có cách nào để hạn chế chỉ định thầu?
Những phân tích và so sánh ở trên cho thấy tình trạng chỉ định thầu tràn lan không phải là ngoại lệ ở Việt Nam và cũng không phải do Việt Nam thiếu luật hay luật yếu. Vấn đề rõ ràng là nằm ở việc quyết định lựa chọn hình thức gọi thầu mua sắm tại các cơ quan có nhu cầu mua sắm hàng hóa và dịch vụ bằng tiền ngân sách.
Nếu cứ để cho người có trách nhiệm của những cơ quan này tùy ý quyết định (lựa chọn giữa đấu thầu công khai hay chỉ định thầu) thì khó tránh được rủi ro là quyết định của họ mang động cơ vụ lợi, và do đó họ sẽ có xu hướng chọn chỉ định thầu thay vì đấu thầu, với nhiều lý do thuyết phục.
Để hạn chế tình trạng này thì cần tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ các quyết định chỉ định thầu thay cho đấu thầu rộng rãi. Đương nhiên là vẫn còn đó rủi ro là ngay cả các cán bộ thanh tra, giám sát cũng cấu kết với những người có trách nhiệm ở các cơ quan mua sắm. Bởi vậy, cần thêm một bước đi nữa là tăng cường tính công khai, minh bạch hóa các vấn đề liên quan đến gọi thầu để người dân và các cơ quan thông tin báo chí có thể tham gia theo dõi, giám sát, kịp thời phát hiện và phản ánh các khuất tất, gian dối.


[1] https://www.washingtonpost.com/business/economy/no-bid-us-government-contracts-jump-9-percent-despite-push-for-competition/2013/03/17/9f6708fc-8da0-11e2-b63f-f53fb9f2fcb4_story.html

Thursday 18 August 2016

Nên chắt chiu tiền của dân (Bài đăng trên TBKTSG, 18/8/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/150182/Nen-chat-chiu-tien-cua-dan.html

Chắc không ít người đọc sẽ bị sốc khi đọc được cái tin Đà Nẵng đang tính chuyện dời Trung tâm hành chính khỏi tòa nhà 2.131 tỷ đồng chỉ vừa mới khánh thành và đi vào sử dụng được 3 năm.

Sốc vì sự “bạo tay” hoang phí tiền thuế của dân nay đã thăng tiến thêm lên một tầm cao mới. Các cán bộ tôi tớ của dân ở đã không chỉ dừng lại ở việc mạnh tay chi tiền từ nguồn nộp thuế của dân, từ nguồn bán đất đai cũng là của dân để xây trụ sở mới ngàn tỷ (đã đội vốn 142% từ con số dự toán ban đầu là 880 tỷ đồng) trong khi các trụ sở, văn phòng cũ vẫn còn dùng tốt. Họ còn dũng cảm, bất chấp dư luận để đẩy sự việc đi xa hơn bằng dự định xây khu hành chính mới thay cho tòa nhà mà lúc thiết kế và khánh thành mới đó không lâu đã được ca ngợi là biểu tượng của hiện đại, thống nhất và hiệu quả của thành phố, là bước đột phá trong việc thực hiện một nền hành chính công thân thiện, tận tụy phục vụ nhân dân, doanh nghiệp.


Điều đáng nói là những lý do mà chính quyền Đà Nẵng đưa ra để biện minh cho chủ trương di dời này đều… lãng xẹt!
Lý do đầu tiên được đưa ra là tòa nhà hiện nay ở vị trí không phù hợp, ảnh hưởng đến giao thông trong giờ cao điểm. Điều này có thể là một thực tế. Hãy bỏ qua chuyện phải xử lý những người liên đới trong phê duyệt chủ trương xây dựng trung tâm hành chính này đã có tầm nhìn không tương xứng với viễn kiến của họ về một trung tâm hành chính hiện đại phục vụ tốt cho dân chúng thành phố. Chuyện đáng bàn ở đây là làm gì với tòa nhà hiện tại khi chính quyền Đà Nẵng di dời sang một nơi làm việc mới. Giả sử nó sẽ được bán cho chủ mới, được chuyển đổi công năng sử dụng sang văn phòng, khách sạn, hoặc thậm chí là chung cư cao cấp… Với quy mô lớn, cao 37 tầng, hàng chục ngàn mét vuông diện tích sử dụng đủ chỗ cho nhiều nghìn người sống, làm việc, thì khi chuyển đổi công năng, chắc chắn tòa nhà này sẽ lại gây ra ùn tắc giao thông, thậm chí không phải chỉ trong giờ cao điểm. Vậy chính quyền Đà Nẵng đã tính đến thực tế này chưa? Nếu đã tính rồi mà vẫn quyết định di dời thì phải chăng họ có thái độ “khuất mắt trông coi”, coi việc gây ùn tắc giao thông và chịu hậu quả của ùn tắc là việc của người khác? Nói như vậy để thấy là nếu đã gây ra hậu quả ùn tắc giao thông thì chính quyền cần tìm biện pháp khắc phục ùn tắc giao thông, hoặc không thì phải giảm mật độ người làm việc trong tòa nhà, chấp nhận đây là những khiếm khuyết khi quyết định đặt trung tâm ở trong tòa nhà này.

Lý do thứ hai của việc di dời là không khí trong tòa nhà chưa sạch (không đủ ô xi), và nhiệt độ tòa nhà quá nóng. Người viết bài này hàng ngày ngồi làm việc trong một tòa nhà cũng có 37 tầng hình ô van tứ bề là kính trơ trọi trước nắng chiếu rọi sáng chiều, được xây từ năm 1997 ở Singapore. Quả thật, ngồi cạnh bức tường kính bị nắng chiếu rọi, vẫn có thể thấy sức nóng hấp thụ mặc dù đã kéo mành che chắn. Nhưng điều này được giải quyết bởi một hệ thống điều hòa mạnh đủ để nhân viên phải mặc thêm áo giữ ấm. Và hiện nay chủ sở hữu tòa nhà đang khắc phục thêm bằng cách lắp các ô văng bên ngoài tòa nhà để vừa trang trí, vừa che nắng, một công việc vốn đã kéo dài từ nhiều tháng qua. Nói chuyện này để thấy chuyện nóng và thiếu ô xi chỉ là vấn đề kỹ thuật và sẽ có những giải pháp khắc phục rẻ hơn nhiều, nếu muốn, so với việc đầu tư xây một trụ sở mới ở nơi khác.


Về việc chính quyền cho rằng đã yêu cầu quản lý tòa nhà có nhiều biện pháp khắc phục như bơm khí tươi nhưng chưa khắc phục được để lấy đó làm lý do di dời, thì cần đặt vấn đề ngược lại. Chính quyền Đà Nẵng muốn bán được tòa nhà cho ai đó thì họ buộc phải tìm mọi cách khắc phục các khiếm khuyết trên, nếu không muốn bán với cái giá rẻ như cho, vì chủ mới, với cùng lý do, sẽ không thể sử dụng được tòa nhà này. Mà nếu bán giá rẻ thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Và lấy tiền ở đâu để bù vào mà xây nơi mới (vấn đề này sẽ được nói thêm ở dưới)? Còn nếu quyết tâm khắc phục và sẽ khắc phục được các khiếm khuyết này thì việc gì phải di dời đi nữa?


Lý do thứ ba của việc di dời mà nghe huyễn hoặc, lãng xẹt nhất là để thực hiện chủ trương “xây dựng khu hành chính chứ không phải trung tâm hành chính”. Không hiểu khu hành chính so với trung tâm hành chính thì sẽ có khác biệt quan trọng, có ý nghĩa gì, mang lại những công năng gì mới hơn, tốt hơn cho thường dân, hay chỉ để giải quyết khâu “oai” và là cơ hội mới để kiếm chác, trục lợi? Vừa mới nhảy vọt từ các trụ sở phi tập trung lên trung tâm hành chính hẳn chưa đủ độ hay sao mà chính quyền Đà Nẵng lại “thừa thắng” xông lên, tính đến một bước “đại nhảy vọt” khác?
Mọi chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu chính quyền Đà Nẵng tự làm ra tiền để trang trải cho phí tổn xây dựng trụ sở, khu hành chính mới mà không phải dựa vào tiền thuế của dân, được lấy từ ngân sách, cho dù chỉ là một phần. Họ có thể bao biện là lấy tiền bán tòa trung tâm hành chính hiện tại để chi trả. Nhưng như nói ở trên, để bán được giá thì họ phải khắc phục các khiếm khuyết hiện tại đang là một phần lý do để họ di dời. Mà đã khắc phục được rồi thì không có lý do gì để di dời nữa. Đó là chưa kể tiền bán tòa nhà này suy cho cùng vẫn là tiền của dân chứ không phải tiền của chính quyền Đà Nẵng, và do đó phải ưu tiên cho các mục đích nâng cao đời sống dân chúng trước đã.


Chính quyền Đà Nẵng cũng có thể lấy lý do là bán đất để lấy tiền xây dựng. Nhưng họ nên lưu ý rằng đất cũng là của dân, và quỹ đất chỉ có hạn, bán hết đi rồi thì sau này trông vào đâu để mà giải quyết các nhu cầu chi tiêu cần thiết, cấp bách khác? Hơn nữa, bán đất chỉ là giải pháp “cực chẳng đã”, dành cho những nhu cầu quốc kế dân sinh, cấp bách, mà không còn xoay vào đâu được nữa. Xét trên khía cạnh này thì rõ ràng xây khu hành chính mới tuyệt nhiên không phải là cấp bách, không có không xong.
Và cuối cùng, chính quyền Đà Nẵng sử dụng lá chắn “lấy ý kiến rộng rãi” của nhân dân và/hoặc cán bộ nhân viên làm việc trong tòa nhà để quyết định việc di dời. Điều đáng nói là theo thông tin cho biết thì lúc xây tòa trung tâm hành chính hiện tại, người ta đã không lấy ý kiến nhân dân mà vẫn quyết định làm. Nhưng thôi, lần này hãy nghiêm túc thực hiện và tuân thủ kết quả việc lấy ý kiến rộng rãi của người dân xem họ có ủng hộ “sáng kiến” di dời này hay không. Và chỉ nên lấy ý kiến của dân chứ không phải lấy ý kiến của cán bộ nhân viên làm việc trong tòa nhà hiện tại vì suy cho cùng những người này vẫn đang được dân chi trả lương nên không có động cơ tiết kiệm từng đồng tiền thuế mà người dân đang phải chắt chiu để nộp.


Tóm lại, nếu chính quyền Đà Nẵng không muốn mang tiếng là đi đầu trong phong trào phá nát ngân sách quốc gia bằng phương pháp mới thì tốt nhất là họ nên từ bỏ chủ trương di dời trung tâm hành chính và/hoặc xây dựng khu hành chính mới.

Wednesday 17 August 2016

Giới hạn tăng trưởng (Bài đăng trên ĐBND, 28/7/2016)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=375811


Tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm chỉ tăng 5,52%, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ năm 2015 (6,47%). Để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cả năm là 6,7% thì tăng trưởng 6 tháng cuối năm phải đạt được 7,6%, một mức rất cao trong bối cảnh hiện nay. Tuy vậy, trong báo cáo gửi tới Quốc hội, một mặt Chính phủ cho rằng khó đạt được mục tiêu 6,7% tăng trưởng đã đề ra, nhưng mặt khác lại khẳng định rằng mục tiêu này “vẫn có khả năng đạt được”.

Có một số lý do để Chính phủ vẫn nhìn thấy khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng như vậy trong nửa sau năm nay. Đó là những cải thiện trong tổng cầu và sức mua của thị trường trong nước, tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao, sự phục hồi của công nghiệp chế biến và tăng trưởng cao của khu vực dịch vụ...

Đồng thời, việc ký kết và thực hiện các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới sẽ mang lại những đột phá về đầu tư kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đang được các cấp, các ngành tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt.

Về lý do có sự cải thiện trong tổng cầu và sức mua của thị trường, không rõ báo cáo dựa vào những căn cứ nào để đưa ra nhận định như vậy. Thông thường, có một mối liên hệ rõ ràng giữa tăng trưởng GDP với các chỉ tiêu phản ánh sức mua cũng như tổng cầu. Nhưng tăng trưởng 6 tháng đầu năm đã chậm hẳn lại so với cùng kỳ năm trước, tức là thu nhập của người dân và doanh nghiệp cũng tăng chậm lại. Vì cái gốc đã suy yếu như vậy nên khó có thể thuyết phục rằng tổng cầu và sức mua sẽ mạnh lên trong nửa năm còn lại, do đó tăng trưởng nửa năm sau sẽ hứa hẹn đạt mức cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước.  

Về lý do tổng đầu tư toàn xã hội trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao, cũng tương tự như trên, nếu thực sự những nguồn vốn này đã tăng cao thì tăng trưởng GDP nửa đầu năm sẽ phải khác đi nhiều. Ngoài ra, cũng chưa có cơ sở nào để tin rằng các nguồn vốn này sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn (nhiều) trong nửa năm còn lại để thúc đẩy tăng trưởng GDP mạnh mẽ hơn nữa.

Với sự phục hồi của công nghiệp chế biến, vấn đề đặt ra là sự phục hồi này có bền vững và kéo dài sang hết nửa năm sau hay không? Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự phục hồi của ngành công nghiệp chế biến chắc chắn sẽ là đầu ra xuất khẩu. Nhưng thị trường xuất khẩu của ngành chế biến Việt Nam có tăng trưởng mạnh hay không lại phụ thuộc vào nhu cầu của thế giới, vốn cũng là yếu tố lên xuống bất thường, không thể kiểm soát và nói chắc được.

Sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ tuy có cao hơn cùng kỳ năm trước (6,35% so với 5,86%) nhưng cũng chưa phải là một sự bứt phá mạnh mẽ, và cũng chưa hứa hẹn sẽ bứt phá mạnh mẽ hơn nữa trong nửa năm sau, vì du lịch và dịch vụ miền Trung, nơi bị ảnh hưởng của sự cố ô nhiễm môi trường, nếu có hồi phục cũng chỉ diễn ra từ từ và trong thời gian dài.   

Việc ký kết các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới tuy đã diễn ra nhưng chưa có hiệp định mới, quan trọng nào như TPP và EVFTA sẽ có hiệu lực từ nửa năm cuối của năm nay (các hiệp định khác như với Hàn Quốc thì đã có hiệu lực từ đầu năm). Như vậy, kỳ vọng có những đột phá về đầu tư kinh doanh và mở rộng thị trường xuất khẩu nhờ những hiệp định tự do thương mại nếu có thì cũng phải mất ít nhất hàng năm nữa.

Việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tuy đang được đốc thúc quyết liệt từ trên xuống, nhưng để thay đổi được những bất cập đã ăn sâu thành gốc rễ trong hệ thống chính quyền và nền hành chính từ trung ương đến địa phương chắc chắn không phải là công việc một sớm một chiều, mà đòi hỏi thời gian nhiều năm. Vậy thì nếu có thay đổi thì những thay đổi như vậy chỉ mang tính cục bộ, ở một vài địa phương (ví dụ, thành phố Hồ Chí Minh, trong một vài địa hạt và lĩnh vực hạn hẹp, nhờ dấu ấn cá nhân của Bí thư thành phố Đinh La Thăng). Do đó, cũng là quá sớm để lạc quan rằng việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh này sẽ mang lại ngay kết quả rõ rệt trong nửa năm còn lại.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy việc “thúc” tăng trưởng nửa năm còn lại hoặc là không thể, hoặc là phải trả giá đắt nếu cứ nhắm mắt mà thực hiện. Tổng cầu và sức mua có thể tăng vọt chỉ cần bằng cách in tiền. Nhưng cái giá phải trả sẽ là lạm phát tăng vọt.

Sự phục hồi của ngành công nghiệp và dịch vụ cũng có thể đạt bước nhảy vọt nếu ồ ạt ném tiền đầu tư vào mở rộng sản xuất, tăng quy mô. Nhưng cái giá phải trả là hàng hóa và dịch vụ sẽ dư thừa, không tiêu thụ được, hàng tồn kho tăng cao, xuất hiện thêm các dự án “đắp chiếu”.

Vậy tăng trưởng cả năm nay gần như chắc chắn sẽ không đạt được mục tiêu đề ra vì dư địa còn lại và “an toàn” cho tăng trưởng chính là cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, mà, như đã nói ở trên rằng việc này không thể diễn ra một sớm một chiều.

Chính phủ và Quốc hội cần phải hiểu rõ những giới hạn trên để không biến mục tiêu tăng trưởng 6,7% thành mồi lửa cho những bất ổn vĩ mô, những hậu quả to lớn và lâu dài để lại cho nền kinh tế từ những quyết định sai lầm như đã xảy ra trong quá khứ.

Thursday 11 August 2016

Hạ lãi suất: Đừng nên trông chờ ngân hàng thương mại (Bài đăng trên CafeF, 11/8/2016 )

http://cafef.vn/ha-lai-suat-dung-nen-trong-cho-ngan-hang-thuong-mai-20160811093941473.chn

Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia (UBGSTC) vừa công bố báo cáo tình hình kinh tế 7 tháng đầu năm 2016, cùng dự báo về triển vọng lãi suất. Một trong những nhận định quan trọng của bản báo cáo là việc giảm mặt bằng lãi suất cho vay trong những tháng cuối năm để hỗ trợ doanh nghiệp có sơ sở để thực hiện được, dựa trên 5 yếu tố thuận lợi. Đó là (1) thanh khoản hệ thống đang dồi dào, có thể đảm bảo nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế năm nay; (2) lãi suất trái phiếu Chính phủ tiếp tục giảm ở các kỳ hạn; (3) lạm phát được dự báo ở mức thấp; (4) tỷ giá và thị trường ngoại hối khá ổn định và được dự báo chỉ biến động trong khoảng kỳ vọng; và (5) lợi nhuận các ngân hàng thương mại khả quan, tạo dư địa cho xử lý nợ xấu và tiết giảm chi phí hoạt động của hệ thống. Tuy nhiên, báo cáo nhấn mạnh rằng để giảm mặt bằng lãi suất thì hệ thống ngân hàng cần phải chủ động tiết giảm chi phí hoạt động, đẩy mạnh xử lý nợ xấu để giảm trích lập dự phòng.


Về những yếu tố thuận lợi được báo cáo nêu trên, nếu nhìn nhận từ những góc độ khác thì có thể chúng sẽ không còn tồn tại trong những tháng còn lại của năm nay để tạo điều kiện giảm lãi suất.
Thanh khoản vẫn là ẩn số
Về thanh khoản, đúng là nửa đầu năm nay do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã bơm tiền khá cấp tập qua việc mua vào lượng lớn USD và bơm ra tiền đồng mà không trung hòa đáng kể lượng tiền này. Tuy nhiên, việc bơm tiền này được hậu thuẫn bởi một yếu tố thuận lợi là lạm phát trong mấy tháng đầu năm còn thấp. Bên cạnh đó, NHNN cũng bị thúc bách bởi nhiệm vụ phải hỗ trợ tăng trưởng nên việc đẩy mạnh cung tiền để kích tăng trưởng tín dụng là việc không thể đừng. Đồng thời, NHNN cũng buộc phải tăng cung tiền mạnh để đáp ứng nhu cầu phát hành trái phiếu Chính phủ, bởi nếu không thì sẽ lại làm tăng lãi suất.
Nhưng việc NHNN có tiếp tục bơm tiền mạnh trong 5 tháng còn lại của năm nay như vừa qua hay không lại là một điều không thể đảm bảo, bởi lạm phát đã bắt đầu tăng mạnh trở lại 2, 3 tháng qua, và có khả năng tăng nhanh hơn trong những tháng còn lại khi giá cả hàng hóa thế giới có khả năng tiếp tục phục hồi và ổn định ở mức cao hơn trong nửa đầu năm. Trong khi đó, NHNN vẫn bị ràng buộc bởi một nhiệm vụ là ổn định vĩ mô, tức là giữ không cho lạm phát tăng vọt lên quá 5%, là mức hiện đã mấp mé nếu quy theo năm (CPI tháng 7/2016 đã tăng 2,48% so với tháng 12/2015). Ngoài ra, do kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ đã hoàn thành phần lớn nên nhu cầu tăng cung tiền để hỗ trợ phát hành trái phiếu Chính phủ trở nên không còn cấp thiết nữa.
Tỷ giá phụ thuộc yếu tố bên ngoài
Tỷ giá và thị trường ngoại hối đúng là đã và đang khá ổn định. Nhưng điều này đạt được có phần lớn là bởi một lý do khách quan mang tính quyết định. Đó là những diễn biến kinh tế chính trị trên thế giới có lợi cho việc ổn định tỷ giá tiền đồng trong nước. Những diễn biến này gồm việc Mỹ chưa nâng lãi suất USD, việc người dân Anh bỏ phiếu rời bỏ EU làm suy yếu đồng bảng Anh và ero, và Trung Quốc đang cố gắng ổn định tỷ giá nhân dân tệ, chưa châm ngòi cho làn sóng phá giá bản tệ mới của các nước trong khu vực. Tuy vậy, không ai có thể nói trước được rằng môi trường thuận lợi cho ổn định tỷ giá tiền đồng như hiện tại sẽ tiếp tục kéo dài trong những tháng còn lại của năm nay.
Lợi nhuận có khả năng là “ảo”
Tuy nhiều ngân hàng đã báo cáo mức lợi nhuận khả quan hơn, nhưng từ đó cũng chưa có đủ cơ sở để nói rằng các ngân hàng sẽ có thêm dư địa xử lý nợ xấu và tiết giảm chi phí hoạt động của hệ thống.
Theo phân tích của một số chuyên gia, hiện mức lãi phải thu của nhiều ngân hàng thương mại vẫn đang đứng ở mức cao. Điều này chứng tỏ nhiều ngân hàng đang báo lợi nhuận “ảo”, vì lợi nhuận này được hạch toán từ những khoản nợ thực chất là nợ xấu nhưng vẫn được các ngân hàng coi là nợ tốt và dự thu lãi như với các khoản nợ tốt. Cụ thể hơn, trong số 24 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý 1/2016, có quá nửa, 14 ngân hàng, có tỷ lệ lãi thực thu trên tổng dư nợ, hoặc tỷ lệ lãi phải thu trên tổng dư nợ, hoặc có cả 2 tỷ lệ này ở mức cao.
Như vậy, mức lợi nhuận khả quan mà các ngân hàng thương mại đã công bố trong thời gian qua không hoàn toàn là lợi nhuận có thực, thực thu, nên các ngân hàng thương mại sẽ hầu như không có thêm dư địa để xử lý nợ xấu. Đó là chưa kể nhiều trong số các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý 1/2016 đã có mức nợ xấu chính thức (theo báo cáo) đã tăng cao hơn so với các kỳ trước, thể hiện ở con số tỷ lệ nợ xấu tổng hợp của các tổ chức tín dụng đã tăng lên 2,62% trong quý 1/2016 so với 2,55% của quý 4/2015.
Quan trọng không kém, tuy có thể có một số ngân hàng có lợi nhuận thực cao hơn, và đúng là sẽ có dư địa để giảm lãi suất cho vay, nhưng điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng này tự nguyện cắt giảm lợi nhuận tiềm năng trong kỳ tới. Dẫu vậy, sự tự nguyện này là điều không chắc chắn, vì mục đích hoạt động của các ngân hàng thương mại là truy tìm và tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải làm “từ thiện” cho doanh nghiệp, cho người vay, khi tự nguyện giảm lãi suất cho vay mà không phải do kết quả của một áp lực nào đó từ các cơ quan quản lý.
Có lợi nhuận khả quan nhưng không nhất thiết giảm lãi suất cho vay
Về nhận định cho rằng lợi nhuận khả quan sẽ cho phép các ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động của hệ thống, cũng khó có thể cắt nghĩa được. Có lẽ ngụ ý của nhận định này là khi có lợi nhuận cao hơn, các ngân hàng sẽ không phải chịu áp lực tìm kiếm lợi nhuận lớn như trước nên có thể thu hẹp bớt biên độ chênh lệch lãi suất huy động và cho vay. Nói cách khác, với lợi nhuận kỳ hiện tại tăng lên, các ngân hàng có thể “vui lòng” hơn khi hy sinh lợi nhuận tiềm năng của các kỳ tiếp theo để giảm lãi suất cho vay. Nếu đúng vậy thì sự “vui lòng” hy sinh này cũng là điều không chắc chắn vì không ngân hàng nào muốn tự hy sinh cắt giảm lợi nhuận, như đã nói ở trên.
Nếu ngụ ý của nhận định trên rằng khi có lợi nhuận cao hơn trong kỳ hiện tại, các ngân hàng có thêm dư địa để đầu tư nâng cấp trang thiết bị và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, từ đó nâng cao năng suất và hiệu quả đồng thời tiết giảm chi phí hoạt động thì khả năng này là có thật. Tuy vậy, cũng giống như đã phân tích ở trên, tiết giảm chi phí hoạt động không nhất thiết dẫn đến việc các ngân hàng tự nguyện giảm lãi suất cho vay và thu hẹp lợi nhuận tiềm năng.
Để hạ lãi suất cho vay cần bàn tay can thiệp vĩ mô
Các phân tích ở trên cho thấy không thể trông chờ vào các ngân hàng thương mại trong việc giảm lãi suất cho vay. Việc này chủ yếu là việc của NHNN. Trước tiên, NHNN sẽ phải tiếp tục cân đối giữa mục tiêu nới lỏng tiền tệ để giảm lãi suất với mục tiêu kiểm soát lạm phát và mục tiêu ổn định tỷ giá. Với 3 mục tiêu không thể đồng thời đạt được cùng lúc này thì NHNN sẽ phải lựa chọn một điểm cân bằng thỏa hiệp cho lãi suất để nó không phá vỡ thế cân đối tạm thời hiện tại giữa lãi suất, tỷ giá và lạm phát, hay ngăn cản việc thực hiện 2 mục tiêu còn lại (ổn định tỷ giá và lạm phát). Như thế, lãi suất nói chung sẽ có nhiều khả năng là ổn định ở mức hiện tại thay vì giảm đi hoặc tăng lên.
Một biện pháp mang tính thị trường song song khác mà NHNN có thể thực hiện để giảm lãi suất là tăng cường tính cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, để các ngân hàng tự nguyện giảm lãi suất cho vay nhằm đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Muốn vậy thì các ngân hàng thương mại cần được tự do hơn trong việc quyết định cho ai vay, vay bao nhiêu với lãi suất ở mức nào. Nếu thực hiện được như vậy thì các ngân hàng sẽ tự nguyện, sẽ phải tìm mọi cách để thu hẹp biên độ chênh lệch lãi suất huy động và cho vay để thu hút khách hàng, thúc đẩy tín dụng mà không cần ai phải kêu gọi hay “đề nghị”.

Tuesday 9 August 2016

Vụ Mobifone mua cổ phần AVG – Đã có sai phạm (Bài không được báo đăng)

Mới đây Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương tiến hành thanh tra toàn diện về dự án Mobifone mua 95% cổ phần của AVG, nếu có dấu hiệu vi phạm thì chuyển cơ quan điều tra để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Một trong những ẩn số chính trong thương vụ mua bán này là số tiền Mobifone đã trả cho 95% cổ phần AVG. Theo báo Lao động ngày 2/8, AVG được một số cơ quan thẩm định giá, gồm cả cơ quan định giá được Bộ Tài chính cấp phép, định giá từ 16.565 tỷ đồng đến 33.300 tỷ đồng. Tuy nhiên, dư luận nghi ngờ tính xác đáng của những con số này vì chúng quá lớn so với số vốn AVG đã bỏ ra cũng như thực lực của AVG trên thị trường. Trong khi đó, con số thực tế Mobifone đã trả là bao nhiêu thì lại không được họ công bố, với lý do được trích dẫn trên báo chí lúc thì là vì “điều khoản bảo mật giữa 2 bên, Mobifone không thể tiết lộ được”, lúc thì là “thông tin nằm trong danh mục được bảo vệ theo quy chế mật”.
Chưa nói đến chuyện có điều khoản bảo mật hay quy chế mật để không phải, không được tiết lộ giá trị của thương vụ trên hay không, nhưng chắc chắn một điều là cơ quan chủ quản của Mobifone, tức Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), phải được báo cáo và biết về giá mua AVG của Mobifone. Theo Mobifone cho biết trên báo chí, Bộ này đã phê duyệt dự án đầu tư dịch vụ truyền hình của Mobifone hồi tháng 12/2015.
Nhưng khi được hỏi về giá trị thực tế của thương vụ trên trong cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ tối 2/8, ông Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Bộ TT&TT lại nói rằng: “không nên bình luận từ các con số dư luận đồn đoán”, và rằng: “Giá trị thương vụ bao nhiêu có các cơ quan thẩm định giá được Bộ Tài chính cấp phép định giá cụ thể. Việc mua-bán như vậy còn liên quan đến đàm phán giữa các đối tác với nhau”.
Hẳn dư luận khỏi mất công đồn đoán con số thực tế là bao nhiêu nếu những người trong cuộc công bố nó. Mobifone nhất quyết im lặng (đây là một sai phạm, sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau). Vậy thì Bộ TT&TT là nơi có thể công bố con số này. Vấn đề còn lại chỉ là Bộ TT&TT có muốn công bố và có được phép công bố hay không mà thôi.
Xem ra không có điều khoản luật pháp và quy chế nào không cho phép Bộ này công bố giá trị thương vụ trên. Chỉ đạo thanh tra toàn diện thương vụ này của Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ nhằm làm rõ nếu có dấu hiệu vi phạm thì chuyển cơ quan điều tra để xử lý chứ cũng không ngăn cấm Bộ TT&TT giải đáp thắc mắc của dư luận bằng cách cung cấp con số thực tế về giá trị thương vụ.
Và đương nhiên là giá mua thực tế sẽ dựa trên giá thẩm định của cơ quan thẩm định giá và tùy theo thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, đúng như ông Tuấn nói. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng không buộc phải có trách nhiệm đứng ra thương lượng, mua bán hộ cho các doanh nghiệp. Nhưng ít ra thì một khi thương vụ đã kết thúc, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải công bố các thông tin liên quan theo thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Nếu không làm được như vậy tức là có sai phạm trong vấn đề công bố thông tin.
Chuyển sang vấn đề sai phạm vì không công bố thông tin. Mobifone là một doanh nghiệp nhà nước (DNNN) 100% sở hữu nhà nước nên nó phải chịu sự điều chỉnh của Nghị định 81/2015 của Chính phủ về công bố thông tin. Cụ thể, Mobifone sẽ phải công bố định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng và cổng/trang thông tin điện tử các thông tin như chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm và hàng năm, báo cáo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm và 3 năm gần nhất, báo cáo tài chính 6 tháng và cả năm…
Như vậy, chiểu theo Nghị định 81/2015 thì Mobifone phải báo cáo và công bố thông tin về kế hoạch và việc thực hiện mua AVG, bao gồm cả giá mua, cũng như đánh giá kết quả của việc mua này. Trường hợp Mobifone cho rằng giá mua này là thông tin nằm trong danh mục được bảo vệ theo quy chế mật (để lấy đó làm cái cớ khỏi phải công bố) thì chuyện này cũng được đề cập rõ ràng trong Nghị định 81/2015. Cụ thể, điều 10, mục 2 quy định: ”Đối với các chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư có nội dung quan trọng, liên quan hoặc ảnh hưởng đến bí mật và an ninh quốc gia, bí mật kinh doanh, doanh nghiệp báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước quyết định việc công bố nhằm tránh việc lạm dụng các quy định về nội dung bí mật làm hạn chế tính công khai, minh bạch về kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp”.
Nhưng cho đến nay thì chưa thấy cơ quan chức năng nào, kể cả Bộ TT&TT và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo quy định của Nghị định 81, là hai nơi tiếp nhận và công bố thông tin do Mobifone gửi đến, lên tiếng cho biết thông tin về việc Mobifone mua và/hoặc giá mua AVG có phải là thông tin quan trọng, ảnh hưởng đến bí mật và an ninh quốc gia, bí mật kinh doanh hay không. 
Hai bộ trên cũng sai phạm ở khía cạnh đã không hề công bố (đầy đủ) các thông tin về hoạt động của Mobifone, gồm cả thông tin về kế hoạch và thực hiện mua AVG, trên cổng hoặc trang điện tử của mình, như quy định trong điều 3 và 4 của Nghị định 81. Cũng có khả năng là Mobifone đã không cung cấp (đầy đủ) thông tin như quy định cho hai bộ này nên họ không có/không đăng thông tin (đầy đủ) trên cổng hoặc trang thông tin điện tử của mình. Nhưng điều này dù có xảy ra thì cũng cho thấy sai phạm của hai bộ khi đã không yêu cầu và đốc thúc, bắt buộc Mobifone phải cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của luật pháp hiện hành. Nói cách khác, Nghị định 81 được ban hành chỉ để cho có, và nơi vi phạm trước tiên lại chính là các cơ quan quản lý nhà nước.
Tóm lại, thương vụ Mobifone mua AVG không chỉ cho thấy những điểm bất minh bạch mà còn cho thấy sự coi thường pháp luật của các bên liên quan.

Saturday 6 August 2016

Du khách Trung Quốc - sống chung với lũ! (Bài đăng trên TBKTSG, 7/8/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/149628/Du-khach-Trung-Quoc---song-chung-voi-lu.html


Dư luận đang ngày càng quan ngại với làn sóng du khách Trung Quốc tràn vào các điểm du lịch ở Việt Nam, đặc biệt là ở các thành phố như Nha Trang, Đà nẵng…, kéo theo sự tụt giảm số lượng khách du lịch từ phương Tây vì sự nhếch nhác, ồn ào của du khách Trung Quốc.

Để minh họa cho làn sóng khách du lịch Trung Quốc và những thứ liên quan, xin trích dẫn ra đây mấy số liệu liên quan đến du lịch ra nước ngoài của Viện Nghiên cứu Du lịch Trung Quốc.

-          Năm 2015, ước tính đã có 120 triệu lượt khách Trung Quốc du lịch ra nước ngoài, và số người này tiêu đến 104.5 tỷ USD cho các chuyến đi của mình. Như vậy, tính theo đầu người, bình quân một lượt du khách Trung Quốc đã chi tiêu 871 USD. So với năm 2014 thì số lượt người đi du lịch đã tăng 12%, còn tổng số tiền chi tiêu đã tăng 16,7%.

-          Châu Á là nơi đến nhiều nhất của du khách Trung Quốc, với Hàn Quốc từng là địa điểm ưa thích đứng đầu cho đến nửa năm đầu 2015, sau đó bị Nhật chiếm chỗ do dịch bệnh MERS bùng phát ở Hàn Quốc. Để “tái chiếm” thị trường, Hàn Quốc đã quyết định miễn visa cho du khách Trung Quốc đi theo đoàn kể từ tháng 1 năm nay.

-          Lượng du khách Trung Quốc sang Hong Kong đã tụt giảm mạnh, hơn 50%, trong nửa đầu năm 2015 do làn sóng phản đối việc du khách Trung Quốc mua vét hàng hóa ở lãnh thổ này.

-          Ở châu Âu, Đức là địa điểm hấp dẫn hàng đầu, vì nước này đã đơn giản hóa thủ tục xét cấp visa. Kết quả là trong nửa đầu năm 2015, số lượng du khách Trung Quốc đến Đức đã tăng 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2014.  

Còn theo thống kê tổng hợp từ các công ty du lịch Trung Quốc thì trong quý 4/2015, các công ty du lịch Trung Quốc đã tổ chức đưa 13,8 triệu người đi du lịch nước ngoài, tăng 29,2% so với cùng kỳ năm 2014. Việt Nam đứng thứ 8 trong số 10 địa điểm hàng đầu tiếp đón lượng khách này, với thị phần 3%.  

Những số liệu khái quát trên cho thấy du khách Trung Quốc đã mang đến, hoặc hứa hẹn là một nguồn doanh thu khổng lồ do số lượng áp đảo và mức chi tiêu bình quân đầu người cũng không hề “tệ” chút nào. Bên cạnh đó, du khách Trung Quốc khá nhạy cảm với vấn đề visa và thái độ đón tiếp của (người dân) nước sở tại, hay một nguyên nhân nào đó, nên sự biến động nếu có sẽ là rất lớn, cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Bởi vậy, nhiều nước, kể cả các nước đã phát triển phương Tây với nhận thức rõ về tầm quan trọng của du khách Trung Quốc đối với nền kinh tế bản địa nên không ngừng tìm cách quảng bá, thu hút du khách Trung Quốc.

Nếu có dịp sang Nhật, hẳn mọi người sẽ quan sát thấy cách mà người Nhật đón tiếp du khách Trung Quốc theo đúng kiểu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, mặc dù đúng là đi bất cứ nơi đâu trên đất Nhật cũng không khó để nhìn thấy những nhóm người có lối ăn mặc và tác phong đặc trưng giữa đám đông người tứ xứ. Vào các siêu thị lớn, các địa điểm du lịch, mua sắm…, nếu là người Trung Quốc sẽ được đón tiếp và phục vụ bởi nhân viên biết nói tiếng Trung (mà phần lớn là người gốc Trung Quốc). Thái độ phục vụ vẫn tận tình, lễ phép như với bất cứ người Nhật hay người nước ngoài nào khác, dù du khách Trung Quốc có tiêu nhiều hơn hay ít hơn, hay ồn ào, lộn xộn hơn những nhóm du khách từ nơi khác đến. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Nhật, tuy là một nước đắt đỏ hàng đầu thế giới, vẫn ngày càng có sức thu hút với du khách Trung Quốc. Ngược lại, Nhật cũng không ngừng tăng sức cạnh tranh trong cuộc đua thu hút khách Trung Quốc với các đối thủ lớn như Hàn Quốc.

Tuy vậy, dường như trong ý thức của mỗi người dân Nhật đều không có chỗ cho sự dễ dãi, coi thường pháp luật, trật tự xã hội. Người viết đã từng chứng kiến cảnh mấy anh người Trung Quốc đang vật nài xin xỏ một cô gái Nhật tha thứ vì đã dùng máy ảnh chụp ảnh cô gái này, vốn ăn mặc khá mát mẻ, và cô gái cương quyết giằng lấy máy ảnh, đồng thời gọi điện cho cảnh sát đến xử lý.

Đi sang các nước khác trong khu vực cũng thường vẫn thấy sự áp đảo của du khách Trung Quốc, đến mức mà người viết tự hỏi nếu không có du khách Trung Quốc thì tương lai ngành du lịch của những nước, những vùng đất này rồi sẽ về đâu?

Quay trở lại với trường hợp Việt Nam. Rõ ràng là không thể phủ nhận được tầm quan trọng của du khách Trung Quốc với ngành du lịch Việt Nam. Bởi vậy, không thể vì những lý do như ồn ào, lộn xộn mà tìm cách bài trừ hay “nói không” với du khách Trung Quốc. Cũng không thể vì lý do là họ xuất hiện nên làm khách “Tây” bỏ đi, không muốn sang Việt Nam nữa mà tìm cách xa lánh du khách Trung Quốc.

Bài học từ Nhật hay các nước khác cho thấy nếu buộc được du khách Trung Quốc tôn trọng luật pháp sở tại, mỗi người dân và các cơ quan chức năng đều có ý thức rõ ràng với những hành vi xấu xa, sai trái của một bộ phận du khách Trung Quốc thì tự khắc bản thân mỗi du khách Trung Quốc cũng tự thấy xấu hổ, cảnh tỉnh và biết cư xử cho phải phép khi đang ở trên đất Việt Nam. Mà đây không phải là điều viển vông, khi trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc đều có những kêu gọi, cảnh báo người Trung Quốc đi du lịch nước ngoài phải có hành vi phù hợp.

Khi các địa phương Việt Nam làm được như vậy và du khách phương Tây thấy được như vậy thì chắc chắn sẽ có sự chuyển biến theo hướng tích cực cho môi trường du lịch Việt Nam, giảm thiểu tình trạng “Tầu đến Tây đi”. Ngược lại, nếu mỗi cá nhân, các cơ quan chức năng Việt Nam không thực hiện tốt vai trò của mình, để cho môi trường du lịch xuống cấp nặng (ví dụ như tệ nạn bán hàng giả, xuất xứ Trung Quốc nói là của Việt Nam) thì rồi ngay đến cả du khách Trung Quốc cũng “một đi không trở lại” chứ chưa nói gì đến khách “Tây”.

Nói cách khác, cần có thái độ và ứng xử chủ động và tích cực, theo đúng tinh thần “sống chung với lũ”, trước làn sóng du khách Trung Quốc để vừa khai thác được nguồn doanh thu khổng lồ này, vừa hạn chế được những mặt tiêu cực mà nó có thể mang đến cho Việt Nam.

Friday 5 August 2016

Tiền nào cũng là tiền! (Bài đăng trên TBKTSG, 5/8/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/149636/Tien-nao-cung-la-tien.html

Việc Bộ Giao thông vận tải đề xuất vay 7.000 tỷ đồng (vốn ODA) của Trung Quốc triển khai dự án đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái đã nhận được sự phản hồi trái chiều của dư luận. Thực trạng nhiều dự án hạ tầng sử dụng vốn vay Trung Quốc chậm tiến độ, đội vốn và kém hiệu quả đang diễn ra là tiếng chuông cảnh tỉnh liên quan đến yếu tố Trung Quốc, chưa kể đến khía cạnh chính trị khi những khoản vay kiểu này xem ra càng làm tăng thêm sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong khi ngày càng nhiều người muốn đất nước “thoát Trung”.
Do chưa có nhiều thông tin về đề xuất vay 7.000 tỷ đồng này nên cũng khó có thể có ngay câu trả lời là Việt Nam nên hay không nên vay để làm đường cao tốc. Nhưng có một số nguyên tắc chung, có thể làm nền tảng để phân tích việc nên hay không đi vay Trung Quốc.
Nguyên tắc đầu tiên, vốn vay ODA từ nước nào cũng đều là vốn vay ưu đãi, tức lãi suất thấp hơn vốn vay thương mại, có thời gian ân hạn, và thời gian trả nợ kéo dài hàng chục năm, nên chúng hầu như đi kèm với điều kiện hoặc có lợi cho nước cho vay, hoặc buộc nước sử dụng phải tuân thủ một số yêu cầu đặc thù nào đó.
Bởi vậy, nếu khoản vốn vay 7.000 tỷ nói trên có đi kèm với điều kiện là phải sử dụng nhà thầu Trung Quốc và vật liệu từ Trung Quốc thì cũng là một điều bình thường. Phía sử dụng, là Bộ Giao thông vận tải, phải tính toán và so sánh các điều kiện vay của khoản vốn này với các khoản vốn từ các nguồn khác, nếu có. Nếu theo tính toán mà khoản vay từ Trung Quốc mà rẻ hơn, có lợi hơn trên tổng thể thì không có lý do gì để không vay.
Điều quan trọng ở đây chỉ là liệu những người thực hiện nhiệm vụ tính toán này có đủ trình độ và đủ công tâm, khách quan để tính toán hay không, và không chịu bất cứ một sức ép hay một mối lợi “nhạy cảm” nào đó “bẻ cong” ngòi bút của họ hay không mà thôi. Mà muốn vậy thì buộc phải công khai những điều kiện, những yếu tố và dữ liệu đầu vào để dư luận có thể phản biện, góp ý.
Nguyên tắc thứ hai, dù là vốn ODA, nhưng không có nghĩa là nước sử dụng, Việt Nam trong trường hợp này, sẽ lâm vào tình thế “há miệng mắc quai”, để mặc phía nhà thầu Trung Quốc muốn tác oai tác quái, làm gì thì làm mà vẫn phải nhẫn nhịn, chịu đựng hoặc cùng lắm là “kêu gọi” với “đề nghị”. Bởi dù là Việt Nam sẽ phải chấp nhận nhà thầu, thiết bị, vật liệu và nhân công Trung Quốc nhưng mọi việc đều phải diễn ra trong khuôn khổ các hợp đồng cam kết đã ký giữa các bên liên đới. Nếu thực hiện nghiêm hợp đồng thì mọi vi phạm, nếu có, của nhà thầu Trung Quốc sẽ bị phạt nặng hay nhẹ theo mức độ vi phạm các điều khoản này. Nên điều quan trọng ở đây là phía Việt Nam khi ký kết hợp đồng có “khờ dại” chấp nhận những điều khoản sơ hở, có lợi cho phía nhà thầu Trung Quốc, gây bất lợi cho Việt Nam hay không, như những lý do được viện dẫn đây đó để biện minh cho sự chậm trễ trong dự án, ví dụ như Gang thép Thái Nguyên mới đây.
Để sự “khờ dại” này không tái diễn hoặc vì sự thiếu hiểu biết của những người trong cuộc phía Việt Nam, hoặc là hậu quả của một sự cố tình để trục lợi cá nhân hay của một nhóm lợi ích thì, lại một lần nữa, chuyện đảm bảo sự công khai, minh bạch, và khách quan là rất quan trọng ở đây. Nếu phía sử dụng vốn là chủ đầu tư cùng với nhà thiết kế, tư vấn và giám sát cảm thấy không đủ trình độ (để sau này không còn viện lý do “chưa có kinh nghiệm”) thì buộc phải thuê nhà thiết kế, tư vấn và giám sát độc lập có uy tín, từ nước ngoài.
Nguyên tắc thứ ba, vay ODA nhưng cũng phải có mục đích xác đáng. Không rõ dự án đường cao tốc Móng Cái – Vân Đồn nói trên có nằm trong quy hoạch phát triển đường cao tốc của Việt Nam hay không, nó có thực sự có nghĩa phát triển kinh tế xã hội hay không (nếu so với việc rót khoản vốn này vào những đường cao tốc khác hay những dự án phát triển hạ tầng khác), hay nó chỉ là một phần trong chiến lược phát triển của… Trung Quốc!
Đã có đây đó một số dự án phát triển hạ tầng cơ sở mà Trung Quốc đề xuất cho các nước láng giềng, đề xuất cho vay vốn để thực hiện. Điểm chung của những dự án này là chúng phục vụ cho một chiến lược dài hạn của Trung Quốc kết nối và làm lan tỏa sự ảnh hưởng về kinh tế và chính trị của nước này ra khu vực, châu lục và quốc tế. Như vậy, các dự án này rõ ràng là cấp thiết và có lợi cho Trung Quốc, nhưng chúng không nhất thiết là có lợi, cấp thiết cho những nước láng giềng, những nước sử dụng vốn của Trung Quốc.
Bởi vậy, dự án đường cao tốc Móng Cái – Vân Đồn trước tiên phải được xem xét từ góc độ này. Nếu câu trả lời là nó cũng rất có ý nghĩa và cấp thiết cho Việt Nam, và nếu phía Bộ Giao thông vận tải cũng có câu trả lời rõ ràng rằng các điều kiện của khoản vay 7.000 tỷ đồng từ Trung Quốc này là thuận lợi hơn so với từ những nguồn vay khác thì không có lý do gì lại không vay, dù là từ Trung Quốc.
Nguyên tắc thứ tư, vay ODA từ Trung Quốc có thể buộc phải sử dụng nhà thầu, công nghệ, vật liệu của Trung Quốc nhưng không có nghĩa là mọi thứ của, có nguồn gốc từ Trung Quốc đều kém, là thứ phẩm, hoặc Việt Nam buộc phải chấp nhận mọi thứ thứ phẩm mà nhà thầu Trung Quốc mang sang và/hoặc tạo ra ở Việt Nam.
Công nghệ, nhân công và nhà thầu Trung Quốc (trong lĩnh vực đường cao tốc) hiện đã tràn lan ở nhiều nơi trên thế giới, kể cả những nước phát triển. Nên vì thế không thể có con mắt hoàn toàn ác cảm với những thứ này của Trung Quốc. Thậm chí, điểm tích cực của phía Trung Quốc là họ có chất lượng đảm bảo với giá thành cực kỳ cạnh tranh nên mới thắng thầu trong những công trình ở nước ngoài như vậy.
Với Việt Nam, tuy có thể buộc phải chấp nhận chỉ định thầu hay chấp nhận để nhà thầu mang nhân công và vật liệu sang Việt Nam nhưng phía Việt Nam vẫn hoàn toàn có thể ngăn chặn được những thứ “phế phẩm”, những thứ không đáp ứng tiêu chuẩn công nghệ tham chiếu, đặc biệt khi được quy định rõ ràng như vậy trong các hợp đồng xây dựng ký kết với phía Trung Quốc. Nếu đã quy định như vậy mà vẫn để “lọt lưới” những sản phẩm kém chất lượng vào Việt Nam và/hoặc được tạo ra ở Việt Nam thì phía Việt Nam cần chiểu theo các thỏa thuận đã ký kết, các tiêu chuẩn chất lượng tham chiếu để xử phạt phía nhà thầu Trung Quốc. Nếu không thực hiện (được) thì rõ ràng vấn đề nằm ở phía Việt Nam chứ không phải ở các yếu tố Trung Quốc.
Tóm lại, tiền vay từ Trung Quốc thì cũng vẫn là tiền, và thuần túy chỉ là tiền. Những khoản vay này vẫn có thể cần thiết và có ý nghĩa với Việt Nam nếu Việt Nam biết cách vay và sử dụng đúng đắn và hợp lý.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).