Dư luận đang ngày
càng quan ngại với làn sóng du khách Trung Quốc tràn vào các điểm du lịch ở Việt
Nam, đặc biệt là ở các thành phố như Nha Trang, Đà nẵng…, kéo theo sự tụt giảm
số lượng khách du lịch từ phương Tây vì sự nhếch nhác, ồn ào của du khách Trung
Quốc.
Để minh họa cho
làn sóng khách du lịch Trung Quốc và những thứ liên quan, xin trích dẫn ra đây
mấy số liệu liên quan đến du lịch ra nước ngoài của Viện Nghiên cứu Du lịch
Trung Quốc.
-
Năm
2015, ước tính đã có 120 triệu lượt khách Trung Quốc du lịch ra nước ngoài, và
số người này tiêu đến 104.5 tỷ USD cho các chuyến đi của mình. Như vậy, tính
theo đầu người, bình quân một lượt du khách Trung Quốc đã chi tiêu 871 USD. So
với năm 2014 thì số lượt người đi du lịch đã tăng 12%, còn tổng số tiền chi
tiêu đã tăng 16,7%.
-
Châu
Á là nơi đến nhiều nhất của du khách Trung Quốc, với Hàn Quốc từng là địa điểm
ưa thích đứng đầu cho đến nửa năm đầu 2015, sau đó bị Nhật chiếm chỗ do dịch bệnh
MERS bùng phát ở Hàn Quốc. Để “tái chiếm” thị trường, Hàn Quốc đã quyết định miễn
visa cho du khách Trung Quốc đi theo đoàn kể từ tháng 1 năm nay.
-
Lượng
du khách Trung Quốc sang Hong Kong đã tụt giảm mạnh, hơn 50%, trong nửa đầu năm
2015 do làn sóng phản đối việc du khách Trung Quốc mua vét hàng hóa ở lãnh thổ
này.
-
Ở
châu Âu, Đức là địa điểm hấp dẫn hàng đầu, vì nước này đã đơn giản hóa thủ tục
xét cấp visa. Kết quả là trong nửa đầu năm 2015, số lượng du khách Trung Quốc đến
Đức đã tăng 1,7 lần so với cùng kỳ năm 2014.
Còn theo thống kê tổng hợp từ các
công ty du lịch Trung Quốc thì trong quý 4/2015, các công ty du lịch Trung Quốc
đã tổ chức đưa 13,8 triệu người đi du lịch nước ngoài, tăng 29,2% so với cùng kỳ
năm 2014. Việt Nam đứng thứ 8 trong số 10 địa điểm hàng đầu tiếp đón lượng khách
này, với thị phần 3%.
Những số liệu khái
quát trên cho thấy du khách Trung Quốc đã mang đến, hoặc hứa hẹn là một nguồn doanh
thu khổng lồ do số lượng áp đảo và mức chi tiêu bình quân đầu người cũng không
hề “tệ” chút nào. Bên cạnh đó, du khách Trung Quốc khá nhạy cảm với vấn đề visa
và thái độ đón tiếp của (người dân) nước sở tại, hay một nguyên nhân nào đó,
nên sự biến động nếu có sẽ là rất lớn, cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Bởi vậy,
nhiều nước, kể cả các nước đã phát triển phương Tây với nhận thức rõ về tầm
quan trọng của du khách Trung Quốc đối với nền kinh tế bản địa nên không ngừng
tìm cách quảng bá, thu hút du khách Trung Quốc.
Nếu có dịp sang
Nhật, hẳn mọi người sẽ quan sát thấy cách mà người Nhật đón tiếp du khách Trung
Quốc theo đúng kiểu “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, mặc dù đúng là đi
bất cứ nơi đâu trên đất Nhật cũng không khó để nhìn thấy những nhóm người có lối
ăn mặc và tác phong đặc trưng giữa đám đông người tứ xứ. Vào các siêu thị lớn,
các địa điểm du lịch, mua sắm…, nếu là người Trung Quốc sẽ được đón tiếp và phục
vụ bởi nhân viên biết nói tiếng Trung (mà phần lớn là người gốc Trung Quốc).
Thái độ phục vụ vẫn tận tình, lễ phép như với bất cứ người Nhật hay người nước
ngoài nào khác, dù du khách Trung Quốc có tiêu nhiều hơn hay ít hơn, hay ồn ào,
lộn xộn hơn những nhóm du khách từ nơi khác đến. Vì thế, không phải ngẫu nhiên
mà Nhật, tuy là một nước đắt đỏ hàng đầu thế giới, vẫn ngày càng có sức thu hút
với du khách Trung Quốc. Ngược lại, Nhật cũng không ngừng tăng sức cạnh tranh
trong cuộc đua thu hút khách Trung Quốc với các đối thủ lớn như Hàn Quốc.
Tuy vậy, dường
như trong ý thức của mỗi người dân Nhật đều không có chỗ cho sự dễ dãi, coi thường
pháp luật, trật tự xã hội. Người viết đã từng chứng kiến cảnh mấy anh người
Trung Quốc đang vật nài xin xỏ một cô gái Nhật tha thứ vì đã dùng máy ảnh chụp ảnh
cô gái này, vốn ăn mặc khá mát mẻ, và cô gái cương quyết giằng lấy máy ảnh, đồng
thời gọi điện cho cảnh sát đến xử lý.
Đi sang các nước
khác trong khu vực cũng thường vẫn thấy sự áp đảo của du khách Trung Quốc, đến
mức mà người viết tự hỏi nếu không có du khách Trung Quốc thì tương lai ngành
du lịch của những nước, những vùng đất này rồi sẽ về đâu?
Quay trở lại với
trường hợp Việt Nam. Rõ ràng là không thể phủ nhận được tầm quan trọng của du
khách Trung Quốc với ngành du lịch Việt Nam. Bởi vậy, không thể vì những lý do
như ồn ào, lộn xộn mà tìm cách bài trừ hay “nói không” với du khách Trung Quốc.
Cũng không thể vì lý do là họ xuất hiện nên làm khách “Tây” bỏ đi, không muốn
sang Việt Nam nữa mà tìm cách xa lánh du khách Trung Quốc.
Bài học từ Nhật
hay các nước khác cho thấy nếu buộc được du khách Trung Quốc tôn trọng luật
pháp sở tại, mỗi người dân và các cơ quan chức năng đều có ý thức rõ ràng với
những hành vi xấu xa, sai trái của một bộ phận du khách Trung Quốc thì tự khắc
bản thân mỗi du khách Trung Quốc cũng tự thấy xấu hổ, cảnh tỉnh và biết cư xử
cho phải phép khi đang ở trên đất Việt Nam. Mà đây không phải là điều viển
vông, khi trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc đều có những kêu gọi, cảnh
báo người Trung Quốc đi du lịch nước ngoài phải có hành vi phù hợp.
Khi các địa
phương Việt Nam làm được như vậy và du khách phương Tây thấy được như vậy thì
chắc chắn sẽ có sự chuyển biến theo hướng tích cực cho môi trường du lịch Việt
Nam, giảm thiểu tình trạng “Tầu đến Tây đi”. Ngược lại, nếu mỗi cá nhân, các cơ
quan chức năng Việt Nam không thực hiện tốt vai trò của mình, để cho môi trường
du lịch xuống cấp nặng (ví dụ như tệ nạn bán hàng giả, xuất xứ Trung Quốc nói
là của Việt Nam) thì rồi ngay đến cả du khách Trung Quốc cũng “một đi không trở
lại” chứ chưa nói gì đến khách “Tây”.
Nói cách khác, cần
có thái độ và ứng xử chủ động và tích cực, theo đúng tinh thần “sống chung với
lũ”, trước làn sóng du khách Trung Quốc để vừa khai thác được nguồn doanh thu
khổng lồ này, vừa hạn chế được những mặt tiêu cực mà nó có thể mang đến cho Việt
Nam.
No comments:
Post a Comment