http://www.thesaigontimes.vn/150184/De-han-che-chi-dinh-thau-Quan-trong-la-giam-sat.html
Với Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1/7/2014 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu
(NĐ63) có hiệu lực thi hành vào ngày 15/8/2014, nhiều
người hy vọng tình trạng chỉ định thầu sẽ được giảm thiểu. Tuy vậy, trên thực tế,
tình trạng chỉ định thầu thay cho đấu thầu công khai, rộng rãi trong nước và quốc
tế vẫn còn tràn lan.
Cụ thể, theo tổng hợp
của Bộ KH&ĐT,
trong các năm 2010-2014, tỷ lệ gói thầu áp dụng chỉ định thầu trên tổng số gói
thầu thực hiện trong năm đứng ở mức từ 73% đến 75%. Sang năm 2015, tức
là hơn một năm sau ngày Luật Đấu thầu và NĐ63 có hiệu lực, trong tổng số 153.955 gói thầu được thực hiện theo Luật đấu thầu 2013 trên cả nước, vẫn
có tới 105.472 gói đấu thầu là theo hình thức chỉ định thầu, chiếm 69% tổng số
gói thầu thực hiện cả năm.
Không phải tại luật
Cần nói
ngay rằng nguyên nhân cho tình trạng chỉ định thầu vẫn còn tràn lan như nói ở
trên không phải là do thiếu luật hay luật yếu. Nếu so sánh các điều khoản quy định
về chỉ định thầu trong Luật Đấu thầu và NĐ63 với các điều khoản luật tương tự của
các nước phát triển như Bắc Mỹ và châu Âu thì có thể thấy các điều khoản luật lệ
tương ứng ở Việt Nam hoàn toàn đầy đủ và rõ ràng.
Chẳng hạn,
các trường hợp được áp dụng chỉ định thầu ở Canada là các trường hợp: (1) khẩn
cấp, các cơ quan Chính phủ cần mua ngay được các hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng
nhu cầu bảo vệ sức khỏe, phúc lợi hay an toàn công cộng; và (2) hàng hóa và dịch
vụ cần mua từ nhà cung cấp được chỉ định thuộc chủng loại đặc thù, đáp ứng được
yêu cẩu của Nhà nước.
Ở Việt
Nam, pháp luật thậm chí còn quy định rõ ràng, chi tiết hơn các điều kiện được
chỉ định thầu, gồm (1) Gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời
hậu quả gây ra do sự cố bất khả kháng…; (2) Gói thầu cấp bách cần
triển khai nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới quốc gia, hải đảo; (3) Gói thầu
cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà
thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về công nghệ, bản
quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác…; (4) Gói
thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế xây dựng
được chỉ định cho tác giả của thiết kế kiến trúc công trình trúng tuyển hoặc được
tuyển chọn khi tác giả có đủ điều kiện năng lực theo quy định…; (5) Gói thầu di
dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản
lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng..; và (6) Gói thầu
cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu trong hạn mức được áp
dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ.
Cũng không phải riêng Việt Nam
Cần biết
thêm một sự thực nữa là chuyện chỉ định thầu tràn lan không chỉ có riêng ở Việt
Nam mà còn có cả ở những nước phát triển, ví dụ Mỹ. Theo báo The Washington Post,[1]
năm 2009 Tổng thống Obama nói với các cơ quan Chính phủ rằng việc phụ thuộc vào
các đơn đặt hàng không qua đấu thầu “tạo ra rủi ro rằng tiền thuế sẽ bị chi cho
những hợp đồng lãng phí, không hiệu quả, dễ bị lạm dụng, hoặc không đáp ứng được
nhu cầu của Chính phủ Liên bang hoặc lợi ích của người nộp thuế ở Mỹ”.
Nhưng
trong vòng 4 năm sau đó, chính quyền của ông Obama đã chi nhiều tiền hơn cho
các hợp đồng loại này so với các chính quyền trước đó. Cụ thể, thống kê cho thấy
các cơ quan Chính phủ đã chi trả 115 tỷ đô la cho các hợp đồng chỉ định thầu
năm 2012, tăng tới 8,9% so với năm 2009. Đáng chú ý hơn, sự tăng này xảy ra
trong bối cảnh tổng giá trị thầu của các cơ quan Chính phủ lại giảm đi 5% so với
năm 2009. Điều này có nghĩa là mặc dù chiếc bánh (tổng số gọi thầu) bé lại
nhưng con số về chỉ định thầu lại tăng lên – một sự kết hợp đáng lo ngại!
Và cũng tương đồng về lý do chỉ định thầu
Những
lý do mà các cơ quan Chính phủ ở Mỹ thích chỉ định thầu, theo The Washington Post,
là các cơ quan này thường chỉ xem xét đến duy nhất một công ty cung cấp hàng
hóa và dịch vụ khi họ cần hành động khẩn cấp, hoặc nhà cung cấp hàng hóa và dịch
vụ có chuyên môn đặc thù, hoặc các cơ quan Chính phủ chỉ muốn làm việc với các
nhà cung cấp có năng lực đã được thực tế kiểm chứng trong các hợp đồng với họ
trước đây. Với các cơ quan Chính phủ, những hợp đồng chỉ định thầu như thế này
sẽ tiết kiệm được thời gian cần thiết để mua hàng hóa và dịch vụ, mặc dù họ biết
rõ rằng các hợp đồng loại này do không phải cạnh tranh nên thường bị đội giá.
Ở Việt
Nam, lý do được đưa ra để biện minh cho việc chỉ định thầu là cũng khá tương đồng
như ở Mỹ, cụ thể thường là do tính “cấp bách” của dự án, hay do tính “đặc thù”
của hàng hóa và dịch vụ mà các cơ quan mời thầu ở Việt Nam cần. Mặc dù thực tế
thì ở Việt Nam có phần “tệ” hơn ở Mỹ. Nhiều dự án “cấp bách” nhưng sau khi đã
được giải ngân thì lại được triển khai chậm chạp mà chẳng ai hề hấn gì; hay các
dự án cung cấp sản phẩm và dịch vụ mang tính “đặc thù” nhưng có thể dễ dàng tìm
được nhiều nhà cung cấp khác trong nước và quốc tế.
Vậy có cách nào để hạn chế chỉ định thầu?
Những
phân tích và so sánh ở trên cho thấy tình trạng chỉ định thầu tràn lan không phải
là ngoại lệ ở Việt Nam và cũng không phải do Việt Nam thiếu luật hay luật yếu.
Vấn đề rõ ràng là nằm ở việc quyết định lựa chọn hình thức gọi thầu mua sắm tại
các cơ quan có nhu cầu mua sắm hàng hóa và dịch vụ bằng tiền ngân sách.
Nếu cứ
để cho người có trách nhiệm của những cơ quan này tùy ý quyết định (lựa chọn giữa
đấu thầu công khai hay chỉ định thầu) thì khó tránh được rủi ro là quyết định của
họ mang động cơ vụ lợi, và do đó họ sẽ có xu hướng chọn chỉ định thầu thay vì đấu
thầu, với nhiều lý do thuyết phục.
Để hạn
chế tình trạng này thì cần tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ các quyết định
chỉ định thầu thay cho đấu thầu rộng rãi. Đương nhiên là vẫn còn đó rủi ro là
ngay cả các cán bộ thanh tra, giám sát cũng cấu kết với những người có trách
nhiệm ở các cơ quan mua sắm. Bởi vậy, cần thêm một bước đi nữa là tăng cường tính
công khai, minh bạch hóa các vấn đề liên quan đến gọi thầu để người dân và các
cơ quan thông tin báo chí có thể tham gia theo dõi, giám sát, kịp thời phát hiện
và phản ánh các khuất tất, gian dối.
[1] https://www.washingtonpost.com/business/economy/no-bid-us-government-contracts-jump-9-percent-despite-push-for-competition/2013/03/17/9f6708fc-8da0-11e2-b63f-f53fb9f2fcb4_story.html
No comments:
Post a Comment