Tuesday 9 August 2016

Vụ Mobifone mua cổ phần AVG – Đã có sai phạm (Bài không được báo đăng)

Mới đây Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương tiến hành thanh tra toàn diện về dự án Mobifone mua 95% cổ phần của AVG, nếu có dấu hiệu vi phạm thì chuyển cơ quan điều tra để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Một trong những ẩn số chính trong thương vụ mua bán này là số tiền Mobifone đã trả cho 95% cổ phần AVG. Theo báo Lao động ngày 2/8, AVG được một số cơ quan thẩm định giá, gồm cả cơ quan định giá được Bộ Tài chính cấp phép, định giá từ 16.565 tỷ đồng đến 33.300 tỷ đồng. Tuy nhiên, dư luận nghi ngờ tính xác đáng của những con số này vì chúng quá lớn so với số vốn AVG đã bỏ ra cũng như thực lực của AVG trên thị trường. Trong khi đó, con số thực tế Mobifone đã trả là bao nhiêu thì lại không được họ công bố, với lý do được trích dẫn trên báo chí lúc thì là vì “điều khoản bảo mật giữa 2 bên, Mobifone không thể tiết lộ được”, lúc thì là “thông tin nằm trong danh mục được bảo vệ theo quy chế mật”.
Chưa nói đến chuyện có điều khoản bảo mật hay quy chế mật để không phải, không được tiết lộ giá trị của thương vụ trên hay không, nhưng chắc chắn một điều là cơ quan chủ quản của Mobifone, tức Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT), phải được báo cáo và biết về giá mua AVG của Mobifone. Theo Mobifone cho biết trên báo chí, Bộ này đã phê duyệt dự án đầu tư dịch vụ truyền hình của Mobifone hồi tháng 12/2015.
Nhưng khi được hỏi về giá trị thực tế của thương vụ trên trong cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ tối 2/8, ông Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Bộ TT&TT lại nói rằng: “không nên bình luận từ các con số dư luận đồn đoán”, và rằng: “Giá trị thương vụ bao nhiêu có các cơ quan thẩm định giá được Bộ Tài chính cấp phép định giá cụ thể. Việc mua-bán như vậy còn liên quan đến đàm phán giữa các đối tác với nhau”.
Hẳn dư luận khỏi mất công đồn đoán con số thực tế là bao nhiêu nếu những người trong cuộc công bố nó. Mobifone nhất quyết im lặng (đây là một sai phạm, sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau). Vậy thì Bộ TT&TT là nơi có thể công bố con số này. Vấn đề còn lại chỉ là Bộ TT&TT có muốn công bố và có được phép công bố hay không mà thôi.
Xem ra không có điều khoản luật pháp và quy chế nào không cho phép Bộ này công bố giá trị thương vụ trên. Chỉ đạo thanh tra toàn diện thương vụ này của Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ nhằm làm rõ nếu có dấu hiệu vi phạm thì chuyển cơ quan điều tra để xử lý chứ cũng không ngăn cấm Bộ TT&TT giải đáp thắc mắc của dư luận bằng cách cung cấp con số thực tế về giá trị thương vụ.
Và đương nhiên là giá mua thực tế sẽ dựa trên giá thẩm định của cơ quan thẩm định giá và tùy theo thỏa thuận giữa bên mua và bên bán, đúng như ông Tuấn nói. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng không buộc phải có trách nhiệm đứng ra thương lượng, mua bán hộ cho các doanh nghiệp. Nhưng ít ra thì một khi thương vụ đã kết thúc, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải công bố các thông tin liên quan theo thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Nếu không làm được như vậy tức là có sai phạm trong vấn đề công bố thông tin.
Chuyển sang vấn đề sai phạm vì không công bố thông tin. Mobifone là một doanh nghiệp nhà nước (DNNN) 100% sở hữu nhà nước nên nó phải chịu sự điều chỉnh của Nghị định 81/2015 của Chính phủ về công bố thông tin. Cụ thể, Mobifone sẽ phải công bố định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng và cổng/trang thông tin điện tử các thông tin như chiến lược phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm và hàng năm, báo cáo đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm và 3 năm gần nhất, báo cáo tài chính 6 tháng và cả năm…
Như vậy, chiểu theo Nghị định 81/2015 thì Mobifone phải báo cáo và công bố thông tin về kế hoạch và việc thực hiện mua AVG, bao gồm cả giá mua, cũng như đánh giá kết quả của việc mua này. Trường hợp Mobifone cho rằng giá mua này là thông tin nằm trong danh mục được bảo vệ theo quy chế mật (để lấy đó làm cái cớ khỏi phải công bố) thì chuyện này cũng được đề cập rõ ràng trong Nghị định 81/2015. Cụ thể, điều 10, mục 2 quy định: ”Đối với các chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư có nội dung quan trọng, liên quan hoặc ảnh hưởng đến bí mật và an ninh quốc gia, bí mật kinh doanh, doanh nghiệp báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước quyết định việc công bố nhằm tránh việc lạm dụng các quy định về nội dung bí mật làm hạn chế tính công khai, minh bạch về kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp”.
Nhưng cho đến nay thì chưa thấy cơ quan chức năng nào, kể cả Bộ TT&TT và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, theo quy định của Nghị định 81, là hai nơi tiếp nhận và công bố thông tin do Mobifone gửi đến, lên tiếng cho biết thông tin về việc Mobifone mua và/hoặc giá mua AVG có phải là thông tin quan trọng, ảnh hưởng đến bí mật và an ninh quốc gia, bí mật kinh doanh hay không. 
Hai bộ trên cũng sai phạm ở khía cạnh đã không hề công bố (đầy đủ) các thông tin về hoạt động của Mobifone, gồm cả thông tin về kế hoạch và thực hiện mua AVG, trên cổng hoặc trang điện tử của mình, như quy định trong điều 3 và 4 của Nghị định 81. Cũng có khả năng là Mobifone đã không cung cấp (đầy đủ) thông tin như quy định cho hai bộ này nên họ không có/không đăng thông tin (đầy đủ) trên cổng hoặc trang thông tin điện tử của mình. Nhưng điều này dù có xảy ra thì cũng cho thấy sai phạm của hai bộ khi đã không yêu cầu và đốc thúc, bắt buộc Mobifone phải cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của luật pháp hiện hành. Nói cách khác, Nghị định 81 được ban hành chỉ để cho có, và nơi vi phạm trước tiên lại chính là các cơ quan quản lý nhà nước.
Tóm lại, thương vụ Mobifone mua AVG không chỉ cho thấy những điểm bất minh bạch mà còn cho thấy sự coi thường pháp luật của các bên liên quan.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).