Sunday 11 September 2016

Thoái vốn nhà nước: những nhận thức cần thiết (Bài đăng trên TBKTSG, 11/9/2016)

https://www.blogger.com/blogger.g?blogID=8051314897353908142#editor/target=post;postID=1266092730053259531

Thủ tướng Chính phủ mới đây đã đề nghị các bộ ngành đẩy nhanh quá trình thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp lớn, trong đó có Sabeco, Habeco, Vinamilk... Chủ trương thoái vốn tại những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã cổ phần hóa đã được đề cập từ cách đây gần thập kỷ, nhưng rồi vì nhiều lý do đã diễn ra hết sức chậm chạp.

Chậm bởi lý do chủ quan là chính

Chẳng hạn như với Sabeco, một quan chức hữu trách của Bộ Công Thương mới cách đây không lâu cho biết Sabeco là tài sản quốc gia, giá trị hàng mấy tỉ đô la, là thương hiệu lớn, nên việc bán và giữ thương hiệu, bán ra sao, bán cho ai, bán như thế nào là bài toán của Chính phủ chứ không phải Bộ Công Thương, mặc dù bộ này đã nhiều lần làm công văn xin cổ phần hóa, thoái vốn tại Sabeco.

Trong khi đó, trước đề xuất của Hiệp hội Tài chính về bán dứt điểm vốn nhà nước ở Sabeco theo hình thức đấu giá một lần công khai trên sàn giao dịch chứng khoán, vị này đã thẳng thừng bác bỏ, thậm chí còn cho là đề xuất vụ lợi, với lý do là Chính phủ sẽ không đồng ý vì, đại ý, bán như vậy thì không biết người mua là ai, có cam kết giữ thương hiệu, phát triển công ty lên có lợi cho đất nước hay không.

Không bàn đến đề xuất bán dứt điểm vốn nhà nước theo hình thức đấu giá một lần công khai trên sàn có mang động cơ vụ lợi hay không, nhưng giải thích như trên của vị quan chức ở Bộ Công Thương đã làm không ít người hoài nghi tính bất vụ lợi đằng sau nó. Bởi Bộ Công Thương là cơ quan chủ quản, là người đại diện phần vốn nhà nước tại Sabeco và được Chính phủ giao nhiệm vụ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại Sabeco, nên nếu họ trình ra được các phương án thoái vốn hợp lý thì không có lý gì Chính phủ lại bác các đề xuất này của họ. Vấn đề là họ có (muốn) đề xuất các phương án thoái vốn hợp lý hay không mà thôi, và nói như thế này thì quả bóng trách nhiệm đã được Bộ Công Thương đá ngược lại cho Chính phủ.
Cần tránh nguy cơ là tiền thu được từ việc thoái vốn này lại chui vào các “lỗ đen”, tức là tiếp tục được rót cho những dự án, doanh nghiệp “đắp chiếu” hay những dự án mới được “vẽ” ra để tiêu tiền ngân sách.

Tại phiên họp mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã nói rõ tinh thần bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp này là phải công khai, minh bạch, đưa lên sàn chứng khoán, đấu giá quốc tế trong nước, công khai cả nhà đầu tư để chống tiêu cực, lợi ích nhóm, bảo toàn tối đa tài sản nhà nước. Điều này chứng tỏ việc bán vốn nhà nước trên sàn chứng khoán đã được Chính phủ nhận thức rõ là điều cần thiết.
Vì vậy, sự chậm trễ trong thoái vốn nhà nước có lý do phần lớn là do sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chủ quản, và lý do này cần được giải quyết cho những đợt thoái vốn tiếp theo trong tương lai.

“Thị trường không thuận lợi” chỉ là lý do thứ yếu

Một lý do nữa vẫn thường được đưa ra để biện minh cho sự chậm trễ trong việc niêm yết và bán vốn nhà nước tại các DNNN đã được cổ phần hóa là do thị trường không thuận lợi, ví dụ như do khủng hoảng kinh tế thế giới, hay sự e ngại là nếu thoái vốn dồn dập thì thị trường sẽ “bội thực”, không hấp thu được hết nên sẽ ảnh hưởng đến giá bán...

Thực ra, nếu cứ lo ngại (kể cả một cách thực tâm) rằng điều kiện hiện thời của thị trường không thuận lợi nên cần trì hoãn niêm yết và thoái vốn nhà nước thì việc trì hoãn này có khả năng sẽ là trì hoãn mãi mãi. Vì không ai có thể nói chắc được rằng điều kiện thị trường năm sau sẽ tốt hơn năm nay nên hãy đợi đến năm sau để niêm yết và thoái vốn. Các điều kiện của nền kinh tế trong nước và thế giới luôn biến động với nhiều biến cố bất ngờ, không thể lường trước được. Vì thế, cần chủ động lập kế hoạch theo các kịch bản khác nhau và tiến hành niêm yết, thoái vốn theo những kịch bản này để vừa đạt được mục tiêu chính đặt ra là giảm bớt sự dính líu, chi phối của Nhà nước trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tăng thu cho ngân sách, đồng thời đối phó hữu hiệu với các điều kiện bất lợi của thị trường tại thời điểm niêm yết, thoái vốn.

Về việc e ngại thị trường “bội thực”, lý do này cũng đã rất phổ biến trước đây trong những năm cuối của thập kỷ trước và cuối cùng một loạt doanh nghiệp đã trì hoãn niêm yết, thoái vốn. Thực ra, nếu là “hàng” tốt, thì luôn có những dòng vốn khổng lồ trong và ngoài nước săn tìm, không bao giờ lo “ế” hay không tìm được người mua (với giá tốt). Còn nếu đã là “hàng” xấu, không hấp dẫn thì đúng là có bán rẻ cũng sẽ khó tìm được người mua.

Nhưng với những loại “hàng” xấu này thì Nhà nước càng phải tích cực và chủ động buông bỏ cho nhanh, kể cả bán với giá 0 đồng vì càng nắm giữ thì Nhà nước càng phải chịu thêm tổn thất và tốn kém. Ví dụ, vẫn phải tiếp tục rót vốn cho doanh nghiệp với tư cách là cổ đông chính, trong khi năng lực và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không có cải thiện gì sau cổ phần hóa do chúng vẫn hầu như là một DNNN với Nhà nước nắm giữ đại bộ phận cổ phần.

Nói cách khác, cần tích cực đẩy mạnh cổ phần hóa và có kế hoạch chủ động niêm yết và thoái vốn nhà nước tại các DNNN được cổ phần hóa càng sớm càng tốt.

Cũng phải nhanh chóng niêm yết và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp không hiệu quả

Hiện tại, sự chú trọng về niêm yết và thoái vốn mới chỉ diễn ra ở những doanh nghiệp lớn. Tình hình niêm yết và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhỏ và những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ hoặc “đắp chiếu” hầu như rất yên ắng, không có mấy thông tin cập nhật. Lý do có thể do các doanh nghiệp này nhỏ nên dù có thoái vốn thì cũng không mang lại cho ngân sách một khoản thu đáng kể, hoặc các cơ quan hữu trách đang phải bận tâm với vấn đề có tiếp tục cứu trợ các doanh nghiệp thua lỗ này nữa hay không trước khi niêm yết hay thoái vốn.

Nhưng như trên đã nói, việc niêm yết, thoái vốn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa không chỉ mang thêm đến một nguồn thu bổ sung cho ngân sách mà còn làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, giảm nguy cơ tổn thất cho ngân sách khi vẫn phải rót thêm vốn hay tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp hoạt động mặc dù, về danh nghĩa, các doanh nghiệp này đã trở thành doanh nghiệp phi nhà nước (tư nhân) sau cổ phần hóa.

Bởi vậy, không chỉ với những doanh nghiệp (nhỏ) vẫn đang hoạt động hiệu quả, ngay cả những doanh nghiệp lớn hơn nhưng đang thua lỗ, đắp chiếu thì cũng cần chủ động thoái toàn bộ vốn tại các doanh nghiệp này càng nhanh càng tốt, kể cả có bán với giá 0 đồng hay tiến hành làm thủ tục đóng cửa, phá sản để chấm dứt sự liên đới của Nhà nước vào những “lỗ đen” tiêu tốn ngân sách này.

Mục đích thoái vốn cần được nêu rõ

Cuối cùng, như trên đã đề cập, ngoài mục đích cải thiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, một trong những mục đích chính của thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đương nhiên là để bổ sung nguồn thu cho ngân sách. Nhưng như thế cũng chưa đủ, vì việc thoái vốn có mục đích tối thượng là nhằm giảm thiểu sự dính líu của Nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp, nhường việc này cho các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài.

Từ giác độ đó, cần tránh nguy cơ rõ ràng là tiền thu được từ việc thoái vốn này lại tiếp tục được rót cho những dự án, doanh nghiệp “đắp chiếu” hay những dự án mới của các DNNN hay Nhà nước làm chủ, trong số đó có nhiều cái được “vẽ” ra để tiêu tốn ngân sách.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).