Monday 31 October 2016

Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020: Làm thế nào để thực hiện? (Bài đăng trên ĐBND, 31/10/2016)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=380730

Trong tờ trình Quốc hội về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đã vạch ra cặn kẽ các mục tiêu, quan điểm, nội dung trọng tâm, nhiệm vụ, nội dung thực hiện, nguồn lực thực hiện, điều kiện thực hiện, và lộ trình thực hiện tái cơ cấu.
Tuy nhiên, chỉ đọc các mục đề lớn trên thôi cũng đã thấy sự phức tạp, rối rắm và có cả sự trùng lặp, lẫn lộn giữa các mục đề, giữa mục đích với phương tiện. Quan trọng hơn, điều thiếu vắng nhất trong Kế hoạch này là những điểm mới, mang tính đột phá, cách mạng, đúng nghĩa là một cuộc đổi mới lần thứ hai. Đồng thời Kế hoạch cũng chưa đưa ra cụ thể những cách thức làm thế nào để hiện thực hóa những mục tiêu, quan điểm, nội dung trọng tâm, nhiệm vụ, và nội dung thực hiện trên.
Ví dụ, về phần nội dung, Kế hoạch nêu ra 5 nội dung trọng tâm, trong đó có “phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân”. Để thực hiện nội dung này, trong phần về nhiệm vụ ưu tiên, Kế hoạch đặt ra nhiệm vụ: “cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tư nhân ở cảc cấp trung ương và địa phương”. Nhưng nhiệm vụ này cần được triển khai thực hiện cụ thể như thế nào thì lại không thấy Kế hoạch đề cập đến, ngoài phần lộ trình thực hiện mà Kế hoạch này nhấn mạnh phải thực hiện ngay trong giai đoạn 2017-2018.
Trong khi đó, vấn đề phát triển khu vực kinh tế tư nhân nói trên đã được đề cập đến nhiều lần trong suốt ba chục năm nay trong các văn kiện của Đảng và Chính phủ, các đề án, chiến lược, kế hoạch phát triển các loại mà thậm chí có thể còn chi tiết, cụ thể hơn. Nhưng rồi kết quả thế nào thì tự nó cũng phản ánh rõ khi mục tiêu này lại một lần nữa được đưa vào thành một trong những mục tiêu trọng tâm phấn đấu đạt được của Kế hoạch hiện tại này.
Điều quan trọng mà công luận quan tâm là ai, cần làm gì, có giải pháp đột phá, khác biệt, mới mẻ gì không, như thế nào, kết quả ra sao thì mới được coi là đạt được mục đích (của tái cơ cấu)… Tiếc là những chi tiết “đắt giá” này hoàn toàn vắng bóng trong Kế hoạch. Điều này làm cho Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế hiện tại không khắc phục được sự chung chung, đại khái theo kiểu khẩu hiệu của nhiều kế hoạch tương tự, và điều khác biệt chủ yếu giữa Kế hoạch này với những kế hoạch phát triển kinh tế trung hạn trước đây chỉ là ở cụm chữ “tái cơ cấu” mà thôi.
Tương tự như vậy là các nhiệm vụ khác. Ví dụ, yêu cầu thực hiện nghiêm Luật Ngân sách mà Kế hoạch này đặt ra cũng không phải là điểm mới, có giá trị, vì bản thân Luật Ngân sách đã có những điều khoản ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này. Bên cạnh đó, yêu cầu này còn chứa đựng điểm bất hợp lý. Cụ thể, một mặt thì nó yêu cầu thực hiện nghiêm Luật Ngân sách Nhà nước. Nhưng mặt khác, nó lại yêu cầu tiếp tục cải cách Luật Ngân sách nhà nước, thực hiện đầy đủ, nhất quán kỷ luật ngân sách. Nếu đã thấy rõ Luật Ngân sách còn chứa đựng nhiều điểm bất hợp lý, phải sửa mà lại yêu cầu thực hiện nghiêm luật này thì rõ ràng là Kế hoạch lại “làm khó” nền kinh tế khi hậu quả của những bất cập trong Luật Ngân sách tiếp tục được duy trì và bộc lộ ra.
Về yêu cầu (nhiệm vụ) kiên quyết xử lý nợ xấu, cho phá sản đối với các ngân hàng yếu kém. Những vấn đề này đã có trong các đề án chuyên ngành của ngành ngân hàng, cũng như trong các chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Có lẽ điểm khác biệt ở đây chỉ là có thêm từ “kiên quyết”. Dẫu vậy, để sự khác biệt này có ý nghĩa thì chí ít Kế hoạch này cần phả diễn giải thế nào, ở mức độ nào là “kiên quyết”, ai, thực hiện như thế nào...
Về yêu cầu (nhiệm vụ) hoàn thiện thể chế đầu tư công, đây cũng không phải là điều mới mẻ vì đã được đề cập đến quá nhiều trong các năm qua. Điều khác biệt duy nhất ở Kế hoạch này là yêu cầu: “Đổi mới cơ chế quản lý và phân bổ đầu tư công theo nguyên tắc cạnh tranh, trên cơ sở lĩnh vực ưu tiên đầu tư và các đề xuất dự án tốt, khả thi…” (người viết nhấn mạnh).  Nhưng từ trước đến nay có nhiều dự án được phê duyệt vì được các cơ quan liên đới đánh giá là tốt, khả thi, nhưng rốt cuộc trở thành dự án “đắp chiếu” hoặc thua lỗ triền miên. Điều này chứng tỏ mọi ý đồ, mong muốn vẫn quan trọng ở khâu thực hiện, nên việc đưa thêm yêu cầu này vào trong Kế hoạch tái cơ cấu hiện nay là vừa thừa, vừa thiếu.
Sau cùng, cũng nên dành mấy câu nói về sự lạm dụng cụm từ “tái cơ cấu”. Điều này được thể hiện rõ ở yêu cầu/nhiệm vụ “tái cơ cấu các thị trường nhân tố sản xuất quan trọng bao gồm thị trường quyền sử dụng đất, thị trường nhân lực, và thị trường khoa học công nghệ” mà Kế hoạch này đặt ra phải thực hiện ngay trong giai đoạn 2017-2018. Có lẽ không mấy người hiểu rõ thế nào là tái cơ cấu thị trường quyền sử dụng đất, thị trường nhân lực, và thị trường khoa học công nghệ. Phải chăng Kế hoạch này muốn nói đến các thay đổi cần thiết trong việc sang nhượng, mua bán quyền sử dụng đất để tạo thuận lợi cho việc tích tụ đất đai trong nông nghiệp? Về tái cơ cấu thị trường nhân lực, phải chăng Kế hoạch muốn nói đến việc giảm bớt tỷ trọng nhân lực trong khu vực kinh tế nhà nước? Về tái cơ cấu thị trường khoa học công nghệ, phải chăng ý muốn nói là tăng vai trò của khu vực tư nhân trong nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ? Nếu đúng vậy thì sao không dùng những cách diễn giải đơn giản như thế này, tránh gây hiểu lầm? Nếu không phải, vậy thì Kế hoạch này cũng phải được viết lại cho rõ ràng, dễ hiểu, vì đơn giản là để cho người đọc hiểu cũng chưa đạt được thì khó nói đến chuyện hiện thực hóa nó thành công. 

 

    

Sunday 30 October 2016

Xã hội chung tay xử lý nợ xấu: Phải rạch ròi, chuyện nào ra chuyện đó! (Bài đăng trên CafeF, 30/10/2016, bản gốc)

http://cafef.vn/xa-hoi-chung-tay-xu-ly-no-xau-phai-rach-roi-chuyen-nao-ra-chuyen-do-20161030165024287.chn

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hội đồng thành viên VAMC, cho rằng cần có cái nhìn khách quan về nợ xấu. Nợ xấu không phải là do một mình hệ thống ngân hàng gây ra mà ngân hàng chỉ là một trong những nguyên nhân. Nợ xấu ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế vì vậy cần cả xã hội chung tay xử lý nợ xấu trên tinh thần công khai, minh bạch.

Ông Hùng đã nói đúng rằng ngân hàng chỉ là một trong những nguyên nhân gây ra nợ xấu. Có những nguyên nhân khác như Chính phủ bảo lãnh cho vay hoặc Chính phủ chỉ đạo ngân hàng thương mại cho vay một doanh nghiệp nào đó, phần nhiều là doanh nghiệp nhà nước, để rồi doanh nghiệp đó mất khả năng trả nợ nhưng Chính phủ không chi trả khoản nợ của doanh nghiệp với ngân hàng. Có cả nguyên nhân như một số doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để thực hiện các hợp đồng với Chính phủ nhưng vì lý do nào đó Chính phủ không thanh toán các hợp đồng nên đẩy doanh nghiệp vào đường cùng, mất khả năng trả nợ...
Trong những trường hợp vì một lý do khách quan như trên thì đúng là ngân hàng là một nạn nhân nhiều hơn là một tội đồ gây ra nợ xấu. Cách thức giải quyết nợ xấu trong những trường hợp này đương nhiên không phải là trông chờ, phó mặc cho ngân hàng tự loay hoay với đống nợ xấu do người khác để lại, mà phải là có sự chung tay, có sự chịu trách nhiệm của bên liên đới. Nếu ngân sách, và tức là tiền của dân, phải bỏ ra để đền bù trong những trường hợp này thì cũng là điều tất yếu và công bằng. Nhưng nếu đã đến mức độ này rồi thì phải quy trách nhiệm cho những ai đã tạo ra những lý do “khách quan” như vậy, chứ không thể để xảy ra tình trạng tiền dân là tiền “chùa”, muốn phá thế nào thì phá.

Trong những trường hợp còn lại, mà phần nhiều là lý do chủ quan, từ phía ngân hàng, thì đương nhiên trách nhiệm giải quyết nợ xấu phải là của ngân hàng. Kể cả trong trường hợp mà nhiều người hay viện dẫn “kinh tế khó khăn” làm nhiều doanh nghiệp đóng cửa, phá sản, mất khả năng thanh toán thì đó cũng không phải là lỗi/lý do khách quan mà vẫn là lỗi của ngân hàng khi đã không tỉnh táo xem xét trước khi cho vay. Đặt một câu hỏi đơn giản, tại sao các ngân hàng khác không bị “vướng” vào những doanh nghiệp đóng cửa, phá sản này mà chỉ có một (số) ngân hàng cụ thể? Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi chủ thể phải tự chịu trách nhiệm với các quyết định kinh doanh của mình mà khó có thể đổ lỗi cho ai khác, trừ những trường hợp thật sự khách quan như nói ở trên.
Chuyển sang vấn đề xã hội chung tay để giải quyết nợ xấu như ông Hùng kêu gọi. Như đã nói, trừ những trường hợp Chính phủ liên quan trực tiếp và là nguyên nhân gây ra nợ xấu thì cần thiết phải dùng ngân sách để đền bù cho ngân hàng. Xử lý nợ xấu trong những trường hợp này chỉ đơn giản là vậy, chẳng có gì phải vòng vo, phức tạp, cơ chế nọ kia.

Các trường hợp còn lại, sự chung tay của xã hội, nếu có, chỉ là sự cùng nhau thúc đẩy, giải quyết những điểm nghẽn trong xử lý nợ xấu, mà phần nhiều bằng cơ chế, đúng như một chuyên gia nào đó đã nói, chứ không phải là bằng việc kêu gọi, đòi hỏi ngân sách nhà nước (hoặc nói một cách bí hiểm hơn là “nguồn lực nhà nước”) phải chi tiền ra như một số người đang hào hứng kêu gọi.
Bởi, như đã nói đến đôi lần, trong cơ chế hiện tại, dù có muốn dùng ngân sách để xử lý nợ xấu theo đề xuất của một số người, kiểu như mua nợ xấu bằng tiền thật, theo giá thị trường v.v… thì nợ xấu mua về chắc chắn vẫn sẽ chỉ nằm ùn tắc thêm ở VAMC mà không thể thoát đi đâu được vì bản thân VAMC bây giờ cũng đang lúng túng với đống nợ xấu mà họ đang nắm với những lý do mà ông Hùng đã vạch ra cặn kẽ.

Trong khi đó, sự khai thông về cơ chế, chẳng hạn cho phép mua bán nợ với bên thứ ba, tạo thuận lợi cho việc thu giữ, phát mãi tài sản thế chấp v.v… chắc chắn không những sẽ thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu mà còn mang lại tính hiệu quả cao vì là xử lý theo cơ chế thị trường. Mà cũng lạ, chuyện hiển nhiên như vậy, ngay cả người trong cuộc đã khẩn thiết kêu gọi như vậy mà dường như không ai nhận thấy, muốn xắn tay vào cùng nhau giải quyết, thay vào đó lại chỉ nhăm nhăm kêu gọi ngân sách phải bỏ tiền ra mua lại hết nợ xấu của ngân hàng, để giúp ngân hàng “vượt khó, thoát nghèo”!

Đến đây, có một điều rất quan trọng cần phải lưu ý. Đó là lời kêu gọi tạo những cơ chế thuận lợi riêng cho VAMC với lý do là không thế thì không thúc đẩy được quá trình xử lý nợ xấu. Điều này chỉ đúng một nửa. Vì VAMC về bản chất cũng chỉ là một AMC (tổ chức xử lý nợ của ngân hàng thương mại), cùng có mục đích là xử lý nợ (xấu) trong hệ thống ngân hàng, nên tại sao chỉ tạo cơ chế riêng cho VAMC mà không mở rộng cơ chế này cho cả các AMC của các ngân hàng thương mại khác? Nếu chỉ tạo cơ chế riêng cho VAMC thì có khác gì vẫn buộc nút việc xử lý nợ xấu trong toàn hệ thống ngân hàng?
Hơn nữa, cũng không khó để nhìn thấy trước kết cục trong tương lai gần, VAMC sẽ lại tiếp tục “ca” bài “nguồn lực hạn chế về con người và mạng lưới hoạt động, trong khi số lượng khoản nợ VAMC mua rất lớn… nên VAMC chưa thể trực tiếp quản lý… việc tổ chức thực hiện xử lý tài sản để thu hồi nợ kém hiệu quả” mà ông Hùng đang trần tình trước thiên hạ. Lúc đó, có lẽ VAMC muốn và sẽ trở thành một “siêu tổ chức” độc quyền trong chuyện giải quyết nợ xấu, còn các AMC khác vẫn mãi chỉ là để làm cảnh, nên tốt nhất là dẹp đi cho đỡ tốn kém.

Tóm lại, xã hội chung tay xử lý nợ xấu là việc cần làm nhưng sự chung tay này phải có giới hạn, có lựa chọn việc cần và có thể cùng nhau làm. Xã hội chung tay xử lý nợ xấu tuyệt đối không luôn đồng nghĩa với ngân sách, và tức là người dân phải bỏ tiền ra để cứu trợ ngân hang.

Tuesday 25 October 2016

Xử lý nợ xấu: Rốt cuộc có dùng ngân sách nhà nước hay không? (Bài không được báo đăng vì nhạy cảm)

Theo dự thảo kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 được Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) đưa ra hồi tháng 8 năm nay thì Bộ này đã đề xuất dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Bộ Tài chính được giao soạn thảo đề án nghiên cứu khả năng bố trí nguồn lực ngân sách nhà nước để xử lý một phần nợ xấu , dự kiến trình Quốc hội thông qua.

Đề xuất dùng ngân sách xử lý nợ xấu này đã nhận được nhiều ý kiến phản biện không đồng tình bởi nợ xấu là do ngân hàng gây ra nên không thể lấy tiền thuế của dân để xử lý nợ xấu, và bởi chưa giải thích được rõ ràng tại sao phải dùng ngân sách nhà nước để xử lý trong khi các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn đang trích lập dự phòng và bán nợ xấu vẫn được Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) mua và trả bằng trái phiếu đặc biệt có thể chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Có thể vì thế nên trong kế hoạch tái cơ cấu chính thức trình Quốc hội, việc xử lý nợ xấu bằng ngân sách nhà nước đã được sửa thành “nguồn lực nhà nước nhất định” để tái cơ cấu các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu.
Tuy nhiên, “nguồn lực nhà nước nhất định” là cái gì thì lại là một điều không được cắt nghĩa rõ ràng, tiếp tục gây thắc mắc trong dư luận về chuyện có dùng ngân sách để xử lý nợ xấu hay không.
Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi một lãnh đạo cao cấp của Chính phủ gần đây lý giải rằng: “Chúng ta đừng lẫn lộn hai khái niệm ngân sách nhà nước và nguồn lực nhà nước. Thực tế là từ trước đến giờ và có lẽ sau này cũng vậy, chúng ta rất cân nhắc chuyện sử dụng ngân sách để xử lý nợ xấu và xử lý ngân hàng yếu kém”. Cứ chiểu theo lý giải này thì ít có khả năng và trường hợp ngân sách nhà nước sẽ được dùng để xử lý nợ xấu.
Nhưng mặt khác, vị này lại nói rằng: “Thực tế hiện nay chúng ta đang dùng nguồn lực nhà nước rồi, khi một tổ chức tín dụng trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu. Tức là nếu cho phép ngân hàng trích lập 100 đồng vào chỗ này thì ngân sách đóng 25 đồng rồi, bởi vì không cho trích lập thì nhà nước thu được 25 đồng (thuế thu nhập doanh nghiệp). Rồi khi nhà nước cho VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt thì có nghĩa là dùng ngân sách nhà nước rồi, bởi nếu cho vay thông thường thì lãi suất 7-8%, còn tái cấp vốn chỉ 3%. Cho nên đừng nghĩ chỉ dùng kỹ thuật là xử lý được nợ xấu. Lần này chúng ta khẳng định rằng có thể sử dụng nguồn lực của nhà nước lớn hơn để xử lý nợ xấu”.
Như vậy, có thể thấy trong phần giải thích trên, không những nguồn lực nhà nước với ngân sách nhà nước được dùng lẫn lộn với nhau, dường như được coi đồng nghĩa với nhau, mà có thể hiểu rằng bấy lâu nay chúng ta đã dùng ngân sách để xử lý nợ xấu rồi thì (và cứ thế) sẽ tiếp tục sử dụng ở mức độ lớn hơn để xử lý nợ xấu.
Quan trọng hơn, trong lời giải thích trên đã có sự nhầm lẫn. Cho phép trích lập dự phòng đúng là sẽ làm giảm lãi của ngân hàng, từ đó làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nộp vào ngân sách nhà nước. Nhưng không thể tính theo kiểu “đếm cua trong lỗ” như vậy được vì trích lập dự phòng nợ xấu là một bút toán kế toán bắt buộc, như với bất cứ một loại chi phí hoạt động nào khác của doanh nghiệp, và phần chênh lệch cuối cùng giữa thu và chi mới được coi là lợi nhuận và mới bị tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở đây không có chuyện nhà nước “tự nguyện” giảm trừ thuế cho doanh nghiệp, làm giảm thu ngân sách.
Về chuyện VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt cho TCTD để chiết khấu (hoặc “tái cấp vốn”, theo cách dùng từ của vị này) tại NHNN với lãi suất tái chiết khấu 3%. Cho vay tái chiết khấu hay tái cấp vốn từ NHNN là một nghiệp vụ hàng ngày của NHNN và nguồn tiền cho vay là từ sự tạo tiền của NHNN (nôm na là NHNN in tiền), do đó không thể coi nguồn tiền này là từ ngân sách nhà nước hoặc ngân sách nhà nước đã chịu thiệt vì NHNN đã cho vay tái cấp vốn hay tái chiết khấu. Để dễ hiểu hơn, chỉ cần biết rằng cung tiền (tạo tiền) của NHNN (hàng năm) không bao giờ, không được phép coi là nguồn thu (tiềm năng) của ngân sách nhà nước, tuy đúng là ngân sách nhà nước đôi lúc có thể vay trực tiếp tiền tạo ra từ NHNN như khoản vay 30.000 tỷ đồng hồi năm 2015.
Từ phân tích trên, có thể khẳng định rằng hầu như chúng ta chưa bao giờ dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu. Nếu coi các khoản tiền mà NHNN bỏ ra liên quan đến xử lý nợ xấu (như mua và tái cơ cấu các ngân hàng 0 đồng, tái chiết khấu trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành, tái cấp vốn cho các ngân hàng tạm thời thiếu hụt thanh khoản vì nợ xấu lớn…) là các nguồn lực nhà nước thì đúng là nợ xấu đã được xử lý một phần bởi nguồn lực nhà nước, nhưng đó vẫn không phải là ngân sách nhà nước.
Tuy vậy, cũng cần phải thừa nhận, chấp nhận một số trường hợp ngân sách nhà nước sẽ phải được sử dụng để xử lý nợ xấu. Ví dụ, ngân sách sẽ phải chi trả để xóa các món nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước như Vinashin, vay dưới sự bảo lãnh hay chỉ định cho vay của Chính phủ, thông qua NHNN. Đây là các khoản cho vay biến thành nợ xấu không hoàn toàn do lỗi của ngân hàng nên cần thiết thì ngân sách phải bỏ ra để trả lại cho ngân hàng.
Tóm lại, hiện tại vấn đề có dùng ngân sách để xử lý nợ xấu hay không và, nếu có, thì tại sao phải dùng, vẫn chưa được làm rõ. Thiết nghĩ, Chính phủ cần phải có một câu trả lời chính thức và đầy đủ về vấn đề này để làm yên lòng công luận.

Friday 21 October 2016

Dùng ngân sách để xử lý nợ xấu là chưa thỏa đáng (Bài đăng trên TBKTSG, bản gốc, 21/10/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/152820/Dung-ngan-sach-de-xu-ly-no-xau-la-chua-thoa-dang.html

Tại “Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2016 trong giai đoạn mới: thách thức tái cơ cấu và triển vọng”, ông Trương Văn Phước, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã đưa ra một số lập luận về chuyện cần thiết phải dùng ngân sách để xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Trong bài này, xin được phản biện một số lập luận này của ông Phước để những cơ quan có thẩm quyền có cái nhìn đúng đắn hơn về chuyện xử lý nợ xấu bằng ngân sách.
Trước tiên, về “quan điểm”, theo cách đặt vấn đề của ông Phước, rất đồng ý với ông về quan điểm rằng phải giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, không vì quyền lợi của một vài cổ đông, một vài ngân hàng mà là vì nền kinh tế nói chung. Và cũng đồng ý với ông rằng muốn tái cơ cấu (xử lý) nợ xấu thì không thể để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đơn thường độc mã.
Tuy nhiên, từ quan điểm trên không thể suy ra ngay rằng muốn xử lý nợ xấu (hiệu quả) thì phải dùng ngân sách nhà nước, vì hai vấn đề này không nhất thiết phải dính dáng, quan hệ với nhau. Không thấy ông Phước trình bày về mối quan hệ này, ngoài một “tiết lộ” về con số 12,5% GDP là nguồn lực tham gia giải quyết nợ xấu trong 5 năm qua, và chi tiết rằng “cả hệ thống chính trị vào cuộc (xử lý nợ xấu)”. Những con số và chi tiết này thực ra cũng hoàn toàn không nói lên điều gì liên quan đến câu hỏi tại sao  phải dùng ngân sách để xử lý nợ xấu.
Không rõ con số 12,5% GDP nguồn lực giải quyết nợ xấu mà ông Phước nêu ra cụ thể là gồm những khoản chi tiêu nào, ai chi, cho ai và vào đâu. Tuy vậy, cứ suy từ diễn biến xử lý nợ xấu bấy lâu nay dư luận đã được biết thì nguồn lực này có thể bao gồm số tiền NHNN bỏ ra cho các ngân hàng yếu kém, 0 đồng vay dưới dạng cho vay tái cấp vốn để xử ý nợ xấu. Nhưng số tiền này của NHNN không phải là tiền từ ngân sách (mà từ tạo tiền, một nghiệp vụ thông thường của NHNN) nên không thể nói ngân sách đang được dùng để xử lý nợ xấu.
Hoặc nguồn lực trên cũng bao gồm số vốn VAMC đã bỏ ra dưới dạng trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu từ các ngân hàng. Nhưng trái phiếu VAMC cũng không phải là vốn từ ngân sách (lưu ý rằng 2.000 tỷ đồng vốn điều lệ cấp cho VAMC hoạt động vẫn chưa được dùng đến một đồng nào, theo người đứng đầu VAMC cho biết). Bởi vậy, cũng không thể nói ngân sách đang được dùng để xử lý nợ xấu.

Quan trọng hơn, dù cho nguồn lực trên có được lấy ra từ ngân sách một cách bí mật, lén lút (vì chưa bao giờ được báo cáo công khai, trước Quốc hội) để dùng vào một việc nào đó liên quan đến nợ xấu  thì, theo nguyên tắc, không phải là cái cớ để kêu gọi tiếp tục và công khai, hợp pháp hóa cách làm này, trừ khi những người đứng đằng sau những hành động bí mật này công khai đứng ra nói rõ cách làm, sự cần thiết và lợi ích mang lại của nó cho nền kinh tế nói chung.
Như vậy, về quan điểm, ở đây rõ ràng chuyện tại sao phải dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu vẫn chưa (bao giờ) được những người kêu gọi dùng ngân sách xử lý nợ xấu như ông Phước giải đáp rõ ràng, thỏa đáng. Mà một khi đã vậy thì không thể yêu cầu dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu!

Chuyển sang vấn đề “kỹ thuật”, cũng theo cách nói của ông Phước. Theo ông Phước, để xử lý nợ xấu thì cần 25 tỉ đô la Mỹ trong 5 năm tới. Con số này bao gồm 10 tỉ đô la Mỹ để xử lý số nợ mà VAMC đã mua, 15 tỉ đô la Mỹ còn lại sẽ được các ngân hàng tự thực hiện bao gồm việc bán các tài sản, trích lập dự phòng cấn nợ trừ nợ… đồng thời cần thiết lập thị trường mua bán nợ thực sự.
Các thông tin ông Phước đưa ra như ở trên không giúp ích gì trong việc thuyết phục công luận rằng cần thiết phải rót tiền thật để xử lý nợ xấu (chưa nói đến chuyện tiền thật này phải từ ngân sách). Chẳng hạn, “xử lý số nợ mà VAMC đã mua” là xử lý kiểu gì? Phải chăng là VAMC dùng số tiền 10 tỉ đô la Mỹ này để chi trả các ngân hàng thương mại đã bán nợ xấu cho mình thay vì dùng trái phiếu đặc biệt?

Nếu đúng vậy. Vì nợ xấu đang “mắc kẹt” tại VAMC, chưa biết ngày nào mới xử lý và thu hồi được bao nhiêu trong số nợ đang ôm này, nên nếu VAMC, và thực chất là Nhà nước, cứ “mạnh dạn” chi trả ngay cho các ngân hàng có nợ xấu bằng tiền thật thì có khác gì “thả gà ra đuổi”? Tại sao lại phải hào phóng với các ngân hàng một cách vô nguyên tắc như thế?
Nếu nói rằng cần phải dùng tiền thật để khơi thông những trở ngại về pháp lý và cơ sở hạ tầng (ví dụ, sự thiếu vắng thị trường mua bán nợ) đang ngăn cản VAMC xử lý nợ xấu thì còn có đôi phần có lý. Nhưng chi phí này không thể nào lên đến 10 tỉ đô la Mỹ, mà quá lắm thì cũng chỉ (được phép) là một phần nhỏ trong con số này mà thôi.

Về khoản 15 tỉ đô la Mỹ còn lại dành cho các ngân hàng tự thực hiện (việc xử lý nợ xấu), đề xuất này cũng không rõ ràng và hợp lý. Chẳng hạn, tại sao việc bán các tài sản tại các ngân hàng lại cần (ngân sách) phải rót thêm tiền vào? Nếu cho rằng doanh thu từ bán tài sản không đủ bù đắp chi phí bỏ ra để bán tài sản đó thì tốt nhất đừng tìm cách bán nữa, và ngân sách chẳng cần phải bỏ ra một đồng nào để hỗ trợ cả. Hơn nữa, nguyên tắc nào cho phép dùng ngân sách để hỗ trợ (cho vay) ngân hàng trong việc bán tài sản thế chấp?
Còn nếu nói rằng khoản tiền 15 tỉ này giúp ngân hàng trích lập dự phòng, cấn nợ, trừ nợ... thì cũng vừa vô lý, vừa vô nguyên tắc. Các ngân hàng hiện đang hoạt động hoàn toàn có thể huy động vốn từ phát hành cổ phiếu, tăng mức đóng góp của cổ đông và/hoặc dùng vốn huy động để trích lập dự phòng, thực hiện các nghĩa vụ trả nợ. Nếu cho rằng một số ngân hàng không thể phát hành cổ phiếu hay tăng mức đóng góp của cổ đông vì đã... không thể làm được nữa thì điều này chứng tỏ sức khỏe của ngân hàng rất có vấn đề và NHNN lúc này buộc phải nhảy vào can thiệp, nếu thấy cần thiết thì cho vay tái cấp vốn như với các ngân hàng 0 đồng, tức là cũng vẫn chẳng cần đến vốn từ ngân sách.

Về đề xuất phát hành trái phiếu đặc biệt để huy động vốn trong dân xử lý nợ xấu. Trái phiếu loại này muốn bán được thì phải có bảo lãnh của Chính phủ vì người mua tiềm năng không muốn phải chứng kiến cảnh “thả gà ra đuổi”. Mà như vậy thì không khác gì việc Chính phủ phát hành trái phiếu thu tiền về cho ngân sách rồi từ ngân sách rót vào các ngân hàng.
Ngoài ra, nếu phải phát hành trái phiếu đặc biệt để huy động vốn xử lý nợ xấu thì tại sao không để các ngân hàng tự phát hành trái phiếu hay tăng cường huy động tiền gửi trong dân? Nếu cho rằng các ngân hàng không làm được việc này mà cần phải có bàn tay can thiệp của nhà nước (Chính phủ bảo lãnh phát hành) thì lại quay trở lại vấn đề cần có sự can thiệp của NHNN như nói ở trên. Hơn nữa, chẳng có nguyên tắc nào cho phép Chính phủ bảo lãnh phát hành trái phiếu vì lợi ích riêng của ngân hàng, cho dù dưới chiêu bài xử lý nợ xấu vì quyền lợi chung của nền kinh tế. 

Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế 2016 – 2020: Quan trọng vẫn là con người (Bài đăng trên ĐBND, 21/10/2016)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=380177

Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế 2016-2020 với mục tiêu là thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào việc nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực phát triển, qua đó thay đổi cơ cấu và trình độ của nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng suất cao hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn, có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn và đảm bảo tăng trưởng xanh, sạch, bền vững.

Tuy bản kế hoạch này đã thẳng thắn thừa nhận nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2015 nhưng khi chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế này thì bản kế hoạch dường như vẫn né tránh, chưa chỉ ra nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế này.

Cụ thể, bản kế hoạch nêu nguyên nhân đầu tiên là “Chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”. Tuy nhiên, đây thực chất không phải là nguyên nhân mà chỉ là một biểu hiện của hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế trong giai đoạn trước và kéo dài đến nay. Bởi vậy, mặc dù bản kế hoạch đã đưa ra nhiều chi tiết để minh họa cho “nguyên nhân” này, nhưng rốt cuộc thì đó cũng chỉ là những những biểu hiện cụ thể của các hạn chế trong việc đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Bởi vậy, cần hiểu và đưa việc chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển nói trên vào phần “Những hạn chế”. Đồng thời, cần nhận thức rõ rằng nguyên nhân của việc chậm đổi mới này là do yếu tố chủ quan – con người – chi phối. Đã nhận thức rõ cần phải đổi mới thể chế này nhưng sự trì trệ, yếu kém, tư duy cục bộ, vụ lợi… có hệ thống từ trung ương, các bộ, ngành xuống đến các doanh nghiệp và địa phương đã không được khắc phục nên mới gây ra kết cục như hiện nay. Chỉ khi nào thẳng thắn thừa nhận nguyên nhân này thì các giải pháp đưa ra mới điều trị đúng bệnh.
Về nguyên nhân thứ hai nêu trong bản kế hoạch – tổ chức thực hiện tái cơ cấu còn thiếu hiệu lực và đồng bộ - đây về thực chất cũng là một hạn chế, tức là một kết quả chứ không phải là một nguyên nhân. Và nguyên nhân thực sự của cái kết quả này cũng là do yếu tố con người gây ra. Đó là những người có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện tái cơ cấu, từ trung ương đến địa phương đã không làm tròn trách nhiệm được giao trong việc thực hiện tái cơ cấu một cách có hiệu lực và đồng bộ.  Chỉ khi nào chỉ ra được ai, tổ chức nào đã không làm tròn trách nhiệm và đưa ra được phương pháp khắc phục, chẳng hạn như kỷ luật, thay thế những cá nhân, tổ chức này thì mới mong lấp đi được một lỗ hổng trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế.
Với nguyên nhân tái cơ cấu nền kinh tế chưa gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng phải lặp lại rằng đây chỉ là kết quả chứ không phải nguyên nhân. Và kết quả này thì cũng lại do con người tạo ra. Chẳng hạn, những cá nhân và tổ chức liên đới trong quá trình tái cơ cấu kinh tế đã cố tình tìm cách vô hiệu hóa các áp lực cải cách kinh tế (ví dụ cải cách doanh nghiệp nhà nước, mở cửa và thực hiện cơ chế thị trường cho những ngành và những sản phẩm cam kết tự do hóa theo các thỏa thuận tự do hóa thương mại song phương và đa phương…), do tư duy lợi ích nhóm, cục bộ, hoặc bảo thủ trước tự do hóa v.v…

Hai nguyên nhân cuối cùng được nêu trong bản kế hoạch là năng lực bộ máy hành chính quản lý nhà nước về kinh tế còn hạn chế, và vai trò giám sát các tổ chức chính trị - xã hội và người dân đối với tái cơ cấu nền kinh tế còn chưa được phát huy đầy đủ. Hai nguyên nhân này một mặt đã thừa nhận mối liên hệ trực tiếp với yếu tố con người, nhưng mặt khác, đã không đi sâu hơn trong việc chỉ ra nguyên nhân thực sự làm cho năng lực bộ máy hành chính còn hạn chế và việc giám sát của dân còn chưa được phát huy đầy đủ.

Ở điểm này, cũng cần nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng chính những cá nhân và tổ chức liên đới trong việc xây dựng bộ máy hành chính quản lý nhà nước phải chịu trách nhiệm cho việc năng lực của bộ máy này còn hạn chế. Chẳng hạn, nạn “chạy chức”, “chạy quyền” diễn ra tràn lan là một nguyên nhân làm tha hóa, suy giảm nghiêm trọng chất lượng và năng lực của bộ máy hành chính. Nhưng trên thực tế thì cũng chưa “tóm” được ai nhận “chạy chức”, “chạy quyền”, và cũng chưa thấy ai phải chịu trách nhiệm để tệ nạn này diễn ra tràn lan bao năm nay.
Còn chuyện không phát huy được vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và người dân, ở đây có nguyên nhân các tổ chức chính trị - xã hội này đã không làm tròn trách nhiệm giám sát, nên việc xử lý phải bao gồm giải thể những tổ chức này để đỡ phải tốn ngân sách “nuôi báo cô” chúng, hoặc phải tái cơ cấu chính những tổ chức này để chúng hoạt động có hiệu quả hơn. Cũng có thể có nguyên nhân các tổ chức này bị các cơ quan liên đới “trói tay”, vô hiệu hóa, nên cũng phải phân tích ai đã “trói tay” họ và như thế nào để đưa ra biện pháp xử lý đích đáng.

Với sự giám sát của người dân không được phát huy, nguyên nhân chủ yếu từ sự ngăn cản, không hợp tác hay gây khó dễ từ phía các cơ quan công quyền. Nên biện pháp xử lý cũng phải nhằm vào những “nút thắt” này.

Tóm lại, nguyên nhân của những nguyên nhân gây ra những hạn chế trong tái cơ cấu nền kinh tế chính là những hạn chế về năng lực, phẩm chất, và sự sẵn lòng với tái cơ cấu của những cá nhân liên đới trong bộ máy công quyền quản lý và điều hành nền kinh tế. Chỉ khi nào đạt được đồng thuận về vấn đề này thay vì đổ lỗi cho những lý do có vẻ khách quan thì mới mong công cuộc tái cơ cấu thành hiện thực. 

Thursday 20 October 2016

Để hoán đổi thành công nợ thành cổ phần (Bài đăng trên ĐBND, 20/10/2016)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=380117

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang đưa ra lấy ý kiến cho dự thảo Thông tư Quy định điều kiện, hồ sơ, trình tự và thủ tục chấp thuận việc góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng. Trong đó, đặc biệt đáng lưu ý là điều khoản quy định tổ chức tín dụng (TCTD) được hoán đổi nợ thành vốn góp, mua cổ phần, nhưng chỉ được thực hiện đối với nợ thuộc nhóm 5 hoặc nợ đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro.
Đã được áp dụng trên thế giới
Ý tưởng hoán đổi nợ xấu thành cổ phần của NHNN đang phải đối mặt với nhiều phản đối gay gắt từ công luận. Tuy nhiên, công bằng mà nói, việc hoán đổi nợ thành cổ phần trong doanh nghiệp con nợ không phải là mới, vì nó đã được thực hiện từ lâu trên thế giới.
Sau khi bong bóng bất động sản bục vỡ ở Nhật 2 thập kỷ trước đây, nhiều doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản, các ngân hàng chủ nợ đối mặt với nợ không thu hồi được. Một trong những giải pháp được một số ngân hàng thực thi lúc đó là hoán đổi nợ thành cổ phần và cử người đại diện vào Ban Giám đốc điều hành doanh nghiệp để cùng doanh nghiệp chèo lái vượt qua khủng hoảng. Không phải tất cả các trường hợp đều thành công nhưng cũng không ít trường hợp đã đem lại kết quả với doanh nghiệp thì sống sót còn ngân hàng thì thu hồi được (một phần) nợ. 
Ở Trung Quốc, chương trình hoán đổi nợ thành cổ phần rầm rộ với quy mô lớn đã được thực hiện từ cuối những năm 90. Chính phủ nước này đã cho chuyển 3,3 nghìn tỉ Nhân dân tệ (tương đương 490 tỉ đô la Mỹ) nợ xấu tại 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Trung Quốc cho các công ty quản lý tài sản (AMC) để các công ty này chuyển một phần nợ trong số này thành khoảng 400 tỉ Nhân dân tệ trị giá cổ phần trong các doanh nghiệp con nợ. Hạn chế chương trình hoán đổi nợ kiểu này là các AMC không nhận được cổ tức và không có quyền hành gì trong Ban Giám đốc của doanh nghiệp, AMC cũng khó bán lại cổ phần tại các doanh nghiệp này.
Hồi tháng 3 năm nay, Thủ tướng Trung Quốc tuyên bố sẽ thực hiện việc hoán đổi nợ thành cổ phần theo cơ chế thị trường. Và đến  hôm 10/10 vừa qua, chương trình hoán đổi nợ thành cổ phần này đã được công bố dù bị phê phán kịch liệt. Theo đó, Chính phủ Trung Quốc không ép buộc các ngân hàng phải thực hiện việc này. Về phía doanh nghiệp, nếu là doanh nghiệp nợ ngập đầu và không có khả năng phục hồi thì sẽ không được phép tham gia chương trình. Chỉ có những doanh nghiệp với triển vọng tốt và được xác định là đang gặp khó khăn tạm thời thì mới đạt điều kiện để tham gia chương trình.
Áp dụng ở Việt Nam
Điểm đáng ủng hộ nhất trong dự thảo của NHNN là các TCTD không bị bắt buộc phải hoán đổi nợ xấu thành cổ phần trong các doanh nghiệp con nợ. Nếu bị buộc phải làm điều này thì sẽ có một số trường hợp “dở khóc dở cười”. Ví dụ, một số doanh nghiệp con nợ thực chất là doanh nghiệp tốt nhưng vì một lý do nào đó không trả được nợ. Với những doanh nghiệp này, họ không muốn để cổ phần của mình lọt thêm vào tay ai khác, kể cả ngân hàng chủ nợ. Trong trường hợp này, ngân hàng không thể thực hiện được việc hoán đổi nợ, dù bị NHNN bắt buộc. Hoặc cũng có trường hợp ngân hàng muốn được giải thoát khỏi đống nợ xấu với doanh nghiệp con nợ bằng cách bán lại đống nợ này cho một nhà đầu tư “kền kền” nào đó với giá rẻ thì cũng không được phép bán vì phải thực hiện hoán đổi nợ thành cổ phần với doanh nghiệp như yêu cầu của NHNN.
Ngược lại, điểm thiếu sót lớn nhất của dự thảo của NHN là trong phần điều kiện để các ngân hàng được hoán đổi nợ thành cổ phần của dự thảo không hề có điều khoản nào đề cập đến doanh nghiệp con nợ như thế nào thì được phép hoán đổi nợ với ngân hàng chủ nợ. Sự thiếu vắng điều kiện này tạo điều kiện, là kẽ hở để những doanh nghiệp “xác sống” tiếp tục được ngân hàng chủ nợ “tiếp máu” nuôi dưỡng, có thể bằng những khoản vay nợ mới. Các ngân hàng có một vài lý do để sẵn lòng hoán đổi nợ và có thể tiếp tục cho vay mới các doanh nghiệp này. Ví dụ, các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp “sân sau” của ông chủ ngân hàng nên việc cho phép hoán đổi này là một cái cớ hết sức phù hợp để ông chủ ngân hàng lấy tiền của ngân hàng nuôi doanh nghiệp của minh.
Hoặc cũng có thể các ngân hàng dù biết rằng triển vọng phục hồi của doanh nghiệp là mù mịt nhưng họ không muốn phải báo cáo với cổ đông, với cơ quan chủ quản một con số nợ xấu cao nên tốt nhất là đem “chôn” nợ xấu này đi theo một cách hợp pháp là hoán đổi thành cổ phần để tỷ lệ nợ xấu trên sổ sách kế toán trở nên đẹp hơn mà không nhất thiết phải qua những kênh truyền thống như bán nợ xấu cho VAMC hoặc trích lập dự phòng toàn bộ cho khoản nợ xấu. Bằng cách này, họ hy vọng có thể kiếm được lợi nhuận nhiều hơn nhờ, ví dụ, được phép đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn do tỷ lệ nợ xấu thấp hơn, bù đắp cho phần tổn thất từ khoản nợ phải thu nhưng hầu như chắc chắn là không thu được này.
Sửa đổi dự thảo
Từ phân tích trên, điều NHNN cần bổ sung trong dự thảo của minh là điều khoản quy định đối tượng doanh nghiệp nào thì được phép hoán đổi nợ với TCTD. Cụ thể, chỉ có những doanh nghiệp nào được cho là tạm thời gặp khó khăn, có khả năng phục hồi trong tương lai không xa để có thể làm ra lợi nhuận trả lại cho ngân hàng hoặc ngân hàng có thể bán được cổ phần thu hồi nợ.
Để tăng tinh minh bạch, tránh tình trạng ngân hàng muốn hoán đổi nợ nên tìm cách báo cáo phóng đại khả năng phục hồi của doanh nghiệp, dự thảo cũng cần cần có thêm điều khoản về tiêu chuẩn đánh giá sức khỏe và khả năng phục hồi của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây là một điểm khó thực hiện vì rất khó đề ra những tiêu chuẩn chung cho mọi doanh nghiệp, trong mọi hoàn cảnh. Một cách làm khác là yêu cầu cácTCTD  phải thuê các công ty tư vấn độc lập chuyên nghiệp trong ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động để đánh giá. Cách này cũng sẽ có khó khăn vì Việt Nam hiện tại không có nhiều tổ chức tư vấn độc lập, uy tín, có khả năng đánh giá sức khỏe và triển vọng của doanh nghiệp, đồng thời tạo thêm phí tổn cho các bên liên quan. Bởi vậy, có lẽ dự thảo cần phải tiếp tục lấy ý kiến đóng góp của công chúng thêm ở điểm này trước khi hoàn tất và ban hành.

Monday 17 October 2016

Góp ý dự thảo Đề án Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020: Một số “không nên” (Bài đăng trên TBKTSG, 17/10/2106, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/152556/Gop-y-du-thao-De-an-Ke-hoach-tai-co-cau-nen-kinh-te-giai-doan-2016-2020-Mot-so-khong-nen.html

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) đang đưa ra lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo Đề án Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 để trình Chính phủ báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa 14.

Vì dự thảo Đề án này có phạm vi khá rộng, đề cập đến nhiều vấn đề về nền kinh tế Việt Nam nên trong bài này, chúng ta tập trung việc phân tích và góp ý vào phần đề cập đến các ngành kinh tế ưu tiên của dự thảo Đề án.

Không nên tự trói mình bằng những con số vô hồn

Điều có thể góp ý đầu tiên ở đây là chuyện dự thảo đề ra mục tiêu cụ thể về tái cơ cấu các ngành kinh tế ưu tiên đến năm 2020. Theo đó, dự thảo đặt ra hai mục tiêu: (1) Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng (và/hoặc giá trị xuất khẩu) và việc làm của các ngành trọng điểm tăng nhanh hơn ít nhất 30% so với tốc độ tăng tương ứng giai đoạn 2011–2015; và (2) Xác định và hỗ trợ thực hiện trên thực tế ít nhất 400 dự án đầu tư ưu tiên của các doanh nghiệp tại các ngành ưu tiên trong giai đoạn 2016 – 2020.

Vì Việt Nam có lợi thế khác nhau với mỗi ngành kinh tế và đầu ra của mỗi ngành này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, biến động khôn lường, không chỉ trong nước mà còn cả nước ngoài, nên dù có được ưu tiên thì cũng không có gì có thể đảm bảo rằng những ngành này sẽ phát triển mạnh trên các chỉ tiêu như giá trị gia tăng (và/hoặc giá trị xuất khẩu), và việc làm đồng đều trên 30% so với tốc độ đạt được trong 5 năm của giai đoạn trước đây, bất chấp ý chí chủ quan của những người trong cuộc.

Tương tự như vậy, con số mục tiêu 400 dự án đầu tư ưu tiên được hỗ trợ trong giai đoạn 2016-2020 rõ ràng cũng chỉ là một con số “từ trên trời rơi xuống”. Không thể cộng số học toàn bộ các dự án ưu tiên ở các ngành ưu tiên để báo cáo thành tích. Giả sử có một số ngành ưu tiên nào đó trong số các ngành kinh tế được ưu tiên có nhiều dự án hơn các ngành còn lại, đóng góp chủ yếu vào con số 400 hoặc hơn số dự án ưu tiên như mục tiêu đặt ra, trong khi các ngành ưu tiên còn lại đóng góp rất ít hoặc hầu như không có dự án nào. Lúc đó chẳng nhẽ người ta vẫn báo cáo rằng mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế đã hoàn thành (vượt mức kế hoạch)?

Ngược lại, giả sử tổng cộng các dự án ưu tiên được xác định và hỗ trợ đạt được thấp hơn con số mục tiêu 400 nhưng là những dự án quy mô lớn, chất lượng tốt, có tác động lan tỏa lớn và có nhiều ý nghĩa xã hội tích cực. Nhưng vì đã chót đặt ra mục tiêu, nên Chính phủ và các bộ, ngành dễ bị dư luận nhìn nhận là đã không hoàn thành nhiệm vụ, mà trên thực tế thì không hoàn toàn đúng như vậy.

Vì vậy, thay vì đặt ra mục tiêu tăng trưởng trên 30% và trên 400 dự án ưu tiên, dự thảo nên dùng những chỉ tiêu định tính như tăng trưởng nhanh hơn và hỗ trợ nhiều dự án ưu tiên hơn trong giai đoạn 2016-2020 so với giai đoạn 5 năm trước đó (trong từng ngành kinh tế ưu tiên). Suy cho cùng, chất lượng chứ không phải số lượng mới là điều quan trọng đối với các chiến lược hay quy hoạch.

Không nên liệt kê cụ thể các sản phẩm được ưu tiên

Trong dự thảo Đề án, các ngành, sản phẩm được ưu tiên bao gồm các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản có lợi thế cạnh tranh cao, như cà phê, chè, cao su, ca cao, hạt tiêu, hạt điều, cá da trơn, lợn, tôm, lúa gạo v.v... (lưu ý đến “v.v...”).

Việc liệt kê các loại sản phẩm được ưu tiên như trên là điều không nên. Lý do là, một mặt, dự thảo muốn nhấn mạnh đến những sản phẩm cụ thể xứng đáng được ưu tiên, nhưng mặt khác, việc liệt kê như vậy vô tình bỏ sót những sản phẩm khác hiện tại và sau này đang và sẽ là thế mạnh có tính cạnh tranh cao của Việt Nam. Cũng có thể cơ quan soạn thảo biết được hạn chế của cách làm này (liệt kê sản phẩm cụ thể) nên dự thảo để ngỏ cơ hội liệt kê thêm các sản phẩm khác bằng cách sử dụng từ “v.v...”. Nhưng việc để ngỏ như vậy lại làm khó cho người thực hiện khi không biết sản phẩm nào nên, không nên được ưu tiên, ngoài những sản phẩm đã liệt kê ở đây.

Bên cạnh đó, phát triển những ngành ưu tiên không nên chỉ xuất phát từ lợi thế cạnh tranh cao (của Việt Nam so với các nước khác, trên thị trường xuất khẩu?). Có những sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu nội địa, chỉ mang tính địa phương và phục vụ thị trường trong nước như một số loại cây, con đặc sản được thị trường trong nước ưa chuộng (không nhất thiết dễ xuất khẩu và xuất khẩu được giá) thì vẫn nên được ưu tiên phát triển, chí ít thì chúng mang lại thu nhập cao và cơ hội công ăn việc làm cho địa phương và các doanh nghiệp liên quan.

Ngoài ra, ngay trong những sản phẩm được ưu tiên liệt kê bên trên, có những sản phẩm ở những thời điểm cụ thể không nhất thiết nên là sản phẩm ưu tiên, do điều kiện bất lợi của thị trường, hay xét trên ý nghĩa hiệu quả kinh tế (mà cụ thể là lúa gạo, trong điều kiện giá xuất khẩu thấp, sử dụng nhiều nước trong điều kiện thời tiết khô hạn, nhiễm mặn v.v...).

Bởi vậy, về nguyên tắc, chỉ nên xác định chung là nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn là những ngành ưu tiên do tầm quan trọng của chúng trong giải quyết công ăn việc làm, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, giảm nhập siêu... Còn cụ thể người dân và nhà đầu tư cần phát triển sản phẩm nào thì sẽ thực hiện theo tín hiệu của thị trường, chứ không phải theo ý chí chủ quan của những quan chức ngồi bàn giấy, “thế thiên hành đạo” lập quy hoạch và vạch kế hoạch làm ăn cho nông dân cả vài năm sau.

Không nên bỏ qua công nghiệp năng lượng tái tạo

Trong khi tính xác đáng của việc xác định tới 13 ngành công nghiệp ưu tiên là điều cần phải xem xét thêm, thì sự thiếu vắng của ngành công nghiệp năng lượng tái tạo trong dự thảo là một điều đáng tiếc. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ điện ngày càng tăng cao và ngành điện đang phải chật vật chạy theo nhu cầu này, với nhiều dự án nhiệt điện chạy dầu và than đang và sẽ được triển khai dẫn đến tương lai có thể nhìn trước là nạn ô nhiễm môi trường sẽ ngày càng trầm trọng, Việt Nam cần phải nhanh chóng đưa thêm ra các ưu đãi, ưu tiên mới để thu hút và triển khai ngay các dự án năng lượng tái tạo nhằm thay thế và giảm tải cho ngành năng lượng từ các nhiên liệu hóa thạch không tái tạo được này.

Không nên chỉ dành riêng các ưu tiên cho các dự án/doanh nghiệp ưu tiên

Trong dự thảo Đề án có một điểm đáng chú ý và cần được đặc biệt hoan nghênh. Đó là đề xuất: “Các doanh nghiệp, trong đó nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân trong nước, giữ vai trò dẫn dắt và thực hiện quá trình tái cơ cấu ngành kinh tế. Tái cơ cấu nền kinh tế phải dựa trên các quyết định đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp dưới sức ép cạnh tranh của thị trường trong nước và quốc tế”.

Việc trao sứ mệnh làm nòng cốt cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế cho các doanh nghiệp tư nhân, theo tín hiệu của thị trường, thay vì là các doanh nghiệp nhà nước và bằng các quyết định duy ý chí của các quan chức bàn giấy sẽ làm cho triển vọng tái cơ cấu nền kinh tế, và do đó triển vọng tăng trưởng và phát triển của Việt Nam trở nên sáng sủa hơn rất nhiều.

Bên cạnh đó, đáng tiếc là dự thảo dường như chỉ dành những ưu tiên như hỗ trợ về cải cách thủ tục hành chính, tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, và giảm thiểu chỉ phí kinh doanh cho những dự án được ưu tiên.

Việc các dự án được ưu tiên được tạo điều kiện tiếp cận vốn vay (ưu đãi) là điều ít nhiều vẫn có thể hiểu được và chấp nhận được, khi xét đến tính cần... ưu tiên cho các dự án được ưu tiên. Nhưng việc dành riêng cho các dự án được ưu tiên các ưu tiên về thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh bình đẳng và giảm chi phí kinh doanh sẽ tạo ra một sự bất bình đẳng bất hợp lý mới trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là tại sao các cơ quan công quyền có thể giảm bớt thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng và hạ chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp, dự án ưu tiên mà lại không thể làm thế được cho các doanh nghiệp, dự án còn lại trong nền kinh tế? Có vấn đề gì với lợi ích nhóm và động cơ vụ lợi đằng sau đó hay sao?

Nói cách khác, chừng nào mà cơ quan soạn thảo dự thảo còn thấy những vấn đề về thủ tục và chi phí hành chính vẫn còn “hành” các doanh nghiệp nói chung thì tốt nhất là không nên đưa các ưu tiên này vào trong dự thảo Đề án. Vì như vậy sẽ tạo ra những câu hỏi không dễ trả lời!

Saturday 15 October 2016

Không chịu “lên sàn”: vi phạm có hệ thống (Bài đăng trên TBKTSG, 15/10/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/152550/Khong-chiu-len-san-vi-pham-co-he-thong.html

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ mới đây ký văn bản số 1768/TTg-ĐMDN về việc chuyển nhượng vốn theo Nghị định số 91/2015/NĐ-CP, theo đó yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng thành viên các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước lập danh sách các doanh nghiệp trực thuộc đã cổ phần hóa nhưng chưa đăng ký giao dịch và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đồng thời, người đại diện phần vốn nhà nước phải phối hợp, đôn đốc doanh nghiệp khẩn trương hoàn tất việc đăng ký giao dịch và niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trước ngày 1/11/2016.
Văn bản trên được đưa ra trong bối cảnh hiện vẫn còn khá nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn đã hoàn thành cổ phần hóa trên 1 năm nhưng chưa tiến hành niêm yết hoặc giao dịch trên Upcom như Sabeco, Habeco, Cienco 1, Cienco 4, Vinatex, Vietnam Airlines, Seaprodex, Tổng Công ty Phong Phú...
Cần lưu ý rằng, trước đây Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 51/2014/QĐ-TTg về Một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước. Mục 3 của quyết định này quy định rõ, kể cả với doanh nghiệp đã chính thức trở thành công ty cổ phần trước ngày quyết định này có hiệu lực thi hành (1/11/2014), đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo người đại diện phối hợp, đôn đốc doanh nghiệp hoàn tất việc thực hiện đăng ký giao dịch và niêm yết theo quy định trong thời hạn tối đa 1 năm kể từ ngày quyết định này có hiệu lực.
Như vậy, nhiều doanh nghiệp đã cổ phần hóa hiện tại đã không thực hiện niêm yết theo Quyết định 51 dù quyết định này đã có hiệu lực gần 2 năm. Hơn nữa, rõ ràng sự vi phạm quy định phải niêm yết không chỉ diễn ra ở cấp doanh nghiệp và người đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp mà còn cả ở cấp đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, tức các bộ quản lý ngành, gồm cả Bộ Tài chính và Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, và Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành. Cụ thể, các bộ, ban và UBND đã không theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc triển khai niêm yết nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa trong thời hạn một năm kể từ ngày Quyết định 51 có hiệu lực.     
Rất tiếc là trong Quyết định 51 tuy có quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ban và UBND nhưng lại thiếu điều khoản xử lý khi các cơ quan hữu trách này không thực hiện đúng, nghiêm các quy định về thoái vốn và niêm yết của doanh nghiệp cổ phần hóa trong cùng quyết định. Nên cũng dễ hiểu các cơ quan hữu trách không có động lực phải thực hiện nghiêm chỉnh trách nhiệm của mình, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa đến cả chục năm vẫn không bận tâm chuyện niêm yết trên sàn chứng khoán.
Cũng cần nói một cách công bằng là dường như Thủ tướng Chính phủ cũng “quên” Quyết định 51. Việc để cho nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa không niêm yết trên sàn chứng tỏ Thủ tướng cũng không “truy” các cơ quan hữu trách tại sao lại để xảy ra tình trạng đó và/hoặc cũng đã không chỉ đạo xử lý dứt điểm tình trạng này. 
Sự “phớt lờ” Quết định 51 một cách có hệ thống như vậy có thể là bối cảnh cho việc Phó Thủ tướng ban hành Văn bản 1768 nhắc nhở nói trên. Tuy nhiên, văn bản này cũng chỉ đúng nghĩa là nhắc nhở, và điều ràng buộc trách nhiệm duy nhất dường như chỉ là yêu cầu các cơ quan hữu trách và doanh nghiệp báo cáo Thủ tướng kết quả thực hiện trước ngày 1/11/2016.
Dễ hình dung kết quả của việc báo cáo sẽ là có một số doanh nghiệp tiếp tục trì hoãn việc niêm yết trên thị trường chứng khoán với những lý do ABC rất khách quan, hợp lý như trước đây và rồi mọi chuyện lại sẽ như cũ.
Để tránh tình trạng đáng thất vọng hầu như biết trước như vậy, Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ cần phải xem xét sửa đổi Quyết định 51 hoặc ban hành một văn bản pháp luật khác quy định rõ việc xử phạt người đứng đầu các cơ quan hữu trách không hoàn thành trách nhiệm theo dõi, đôn đốc các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán trong một thời gian nhất định, giả sử là đến hết tháng 3/2017.
Tất nhiên, chắc chắn sẽ lại có những lời biện hộ, bào chữa cho việc chậm chễ niêm yết lên sàn như thời gian gấp gáp, không kịp chuẩn bị kỹ lưỡng... Nhưng thực tế cho thấy nếu không “ép”, không bị đặt dưới áp lực thì các cơ quan hữu trách và doanh nghiệp sẽ không bao giờ thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ.
Bản thân Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ cũng cần phải luôn “nhớ” đến việc niêm yết của các doanh nghiệp cổ phần hóa này bằng cách theo dõi, đôn đốc và xử lý những cơ quan chức năng nào không hoàn thành trách nhiệm của mình, tránh tình trạng văn bản pháp lý ban hành ra rồi để đó, tùy cấp dưới thực hiện thế nào, đến đâu thì thực hiện mà chẳng bị hề hấn gì. Nói cách khác, để tránh “lỗi hệ thống” lặp lại, sự nghiêm minh và tinh thần trách nhiệm cần phải được làm gương, thể hiện từ cấp cao nhất trong hệ thống.  

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).