Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế 2016-2020 với mục tiêu là thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào việc nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực phát triển, qua đó thay đổi cơ cấu và trình độ của nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng suất cao hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn, có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn và đảm bảo tăng trưởng xanh, sạch, bền vững.
Tuy bản kế hoạch này đã thẳng thắn thừa nhận nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2015 nhưng khi chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế này thì bản kế hoạch dường như vẫn né tránh, chưa chỉ ra nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế này.
Cụ thể, bản kế hoạch nêu nguyên nhân đầu tiên là “Chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”. Tuy nhiên, đây thực chất không phải là nguyên nhân mà chỉ là một biểu hiện của hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế trong giai đoạn trước và kéo dài đến nay. Bởi vậy, mặc dù bản kế hoạch đã đưa ra nhiều chi tiết để minh họa cho “nguyên nhân” này, nhưng rốt cuộc thì đó cũng chỉ là những những biểu hiện cụ thể của các hạn chế trong việc đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Bởi vậy, cần hiểu
và đưa việc chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực phát triển nói trên vào phần “Những hạn chế”. Đồng thời, cần nhận thức
rõ rằng nguyên nhân của việc chậm đổi mới này là do yếu tố chủ quan – con người
– chi phối. Đã nhận thức rõ cần phải đổi mới thể chế này nhưng sự trì trệ, yếu
kém, tư duy cục bộ, vụ lợi… có hệ thống từ trung ương, các bộ, ngành xuống đến
các doanh nghiệp và địa phương đã không được khắc phục nên mới gây ra kết cục
như hiện nay. Chỉ khi nào thẳng thắn thừa nhận nguyên nhân này thì các giải
pháp đưa ra mới điều trị đúng bệnh.
Về nguyên nhân thứ
hai nêu trong bản kế hoạch – tổ chức thực hiện tái cơ cấu còn thiếu hiệu lực và
đồng bộ - đây về thực chất cũng là một hạn chế, tức là một kết quả chứ không phải
là một nguyên nhân. Và nguyên nhân thực sự của cái kết quả này cũng là do yếu tố
con người gây ra. Đó là những người có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện
tái cơ cấu, từ trung ương đến địa phương đã không làm tròn trách nhiệm được
giao trong việc thực hiện tái cơ cấu một cách có hiệu lực và đồng bộ. Chỉ khi nào chỉ ra được ai, tổ chức nào đã
không làm tròn trách nhiệm và đưa ra được phương pháp khắc phục, chẳng hạn như
kỷ luật, thay thế những cá nhân, tổ chức này thì mới mong lấp đi được một lỗ hổng
trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế.
Với nguyên nhân tái
cơ cấu nền kinh tế chưa gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng phải lặp
lại rằng đây chỉ là kết quả chứ không phải nguyên nhân. Và kết quả này thì cũng
lại do con người tạo ra. Chẳng hạn, những cá nhân và tổ chức liên đới trong quá
trình tái cơ cấu kinh tế đã cố tình tìm cách vô hiệu hóa các áp lực cải cách
kinh tế (ví dụ cải cách doanh nghiệp nhà nước, mở cửa và thực hiện cơ chế thị
trường cho những ngành và những sản phẩm cam kết tự do hóa theo các thỏa thuận
tự do hóa thương mại song phương và đa phương…), do tư duy lợi ích nhóm, cục bộ,
hoặc bảo thủ trước tự do hóa v.v…Hai nguyên nhân cuối cùng được nêu trong bản kế hoạch là năng lực bộ máy hành chính quản lý nhà nước về kinh tế còn hạn chế, và vai trò giám sát các tổ chức chính trị - xã hội và người dân đối với tái cơ cấu nền kinh tế còn chưa được phát huy đầy đủ. Hai nguyên nhân này một mặt đã thừa nhận mối liên hệ trực tiếp với yếu tố con người, nhưng mặt khác, đã không đi sâu hơn trong việc chỉ ra nguyên nhân thực sự làm cho năng lực bộ máy hành chính còn hạn chế và việc giám sát của dân còn chưa được phát huy đầy đủ.
Ở điểm này, cũng
cần nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng chính những cá nhân và tổ chức liên đới
trong việc xây dựng bộ máy hành chính quản lý nhà nước phải chịu trách nhiệm
cho việc năng lực của bộ máy này còn hạn chế. Chẳng hạn, nạn “chạy chức”, “chạy
quyền” diễn ra tràn lan là một nguyên nhân làm tha hóa, suy giảm nghiêm trọng
chất lượng và năng lực của bộ máy hành chính. Nhưng trên thực tế thì cũng chưa
“tóm” được ai nhận “chạy chức”, “chạy quyền”, và cũng chưa thấy ai phải chịu
trách nhiệm để tệ nạn này diễn ra tràn lan bao năm nay.
Còn chuyện không
phát huy được vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và người dân,
ở đây có nguyên nhân các tổ chức chính trị - xã hội này đã không làm tròn trách
nhiệm giám sát, nên việc xử lý phải bao gồm giải thể những tổ chức này để đỡ phải
tốn ngân sách “nuôi báo cô” chúng, hoặc phải tái cơ cấu chính những tổ chức này
để chúng hoạt động có hiệu quả hơn. Cũng có thể có nguyên nhân các tổ chức này
bị các cơ quan liên đới “trói tay”, vô hiệu hóa, nên cũng phải phân tích ai đã
“trói tay” họ và như thế nào để đưa ra biện pháp xử lý đích đáng.
Với sự giám sát của
người dân không được phát huy, nguyên nhân chủ yếu từ sự ngăn cản, không hợp
tác hay gây khó dễ từ phía các cơ quan công quyền. Nên biện pháp xử lý cũng phải
nhằm vào những “nút thắt” này.
Tóm lại, nguyên
nhân của những nguyên nhân gây ra những hạn chế trong tái cơ cấu nền kinh tế
chính là những hạn chế về năng lực, phẩm chất, và sự sẵn lòng với tái cơ cấu của
những cá nhân liên đới trong bộ máy công quyền quản lý và điều hành nền kinh tế.
Chỉ khi nào đạt được đồng thuận về vấn đề này thay vì đổ lỗi cho những lý do có
vẻ khách quan thì mới mong công cuộc tái cơ cấu thành hiện thực.
No comments:
Post a Comment