Friday 21 October 2016

Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế 2016 – 2020: Quan trọng vẫn là con người (Bài đăng trên ĐBND, 21/10/2016)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=380177

Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế 2016-2020 với mục tiêu là thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào việc nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực phát triển, qua đó thay đổi cơ cấu và trình độ của nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn, có năng suất cao hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn, có tiềm năng tăng trưởng lớn hơn và đảm bảo tăng trưởng xanh, sạch, bền vững.

Tuy bản kế hoạch này đã thẳng thắn thừa nhận nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2015 nhưng khi chỉ ra những nguyên nhân của các hạn chế này thì bản kế hoạch dường như vẫn né tránh, chưa chỉ ra nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế này.

Cụ thể, bản kế hoạch nêu nguyên nhân đầu tiên là “Chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”. Tuy nhiên, đây thực chất không phải là nguyên nhân mà chỉ là một biểu hiện của hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế trong giai đoạn trước và kéo dài đến nay. Bởi vậy, mặc dù bản kế hoạch đã đưa ra nhiều chi tiết để minh họa cho “nguyên nhân” này, nhưng rốt cuộc thì đó cũng chỉ là những những biểu hiện cụ thể của các hạn chế trong việc đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.

Bởi vậy, cần hiểu và đưa việc chậm đổi mới thể chế huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển nói trên vào phần “Những hạn chế”. Đồng thời, cần nhận thức rõ rằng nguyên nhân của việc chậm đổi mới này là do yếu tố chủ quan – con người – chi phối. Đã nhận thức rõ cần phải đổi mới thể chế này nhưng sự trì trệ, yếu kém, tư duy cục bộ, vụ lợi… có hệ thống từ trung ương, các bộ, ngành xuống đến các doanh nghiệp và địa phương đã không được khắc phục nên mới gây ra kết cục như hiện nay. Chỉ khi nào thẳng thắn thừa nhận nguyên nhân này thì các giải pháp đưa ra mới điều trị đúng bệnh.
Về nguyên nhân thứ hai nêu trong bản kế hoạch – tổ chức thực hiện tái cơ cấu còn thiếu hiệu lực và đồng bộ - đây về thực chất cũng là một hạn chế, tức là một kết quả chứ không phải là một nguyên nhân. Và nguyên nhân thực sự của cái kết quả này cũng là do yếu tố con người gây ra. Đó là những người có trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện tái cơ cấu, từ trung ương đến địa phương đã không làm tròn trách nhiệm được giao trong việc thực hiện tái cơ cấu một cách có hiệu lực và đồng bộ.  Chỉ khi nào chỉ ra được ai, tổ chức nào đã không làm tròn trách nhiệm và đưa ra được phương pháp khắc phục, chẳng hạn như kỷ luật, thay thế những cá nhân, tổ chức này thì mới mong lấp đi được một lỗ hổng trong việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế.
Với nguyên nhân tái cơ cấu nền kinh tế chưa gắn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cũng phải lặp lại rằng đây chỉ là kết quả chứ không phải nguyên nhân. Và kết quả này thì cũng lại do con người tạo ra. Chẳng hạn, những cá nhân và tổ chức liên đới trong quá trình tái cơ cấu kinh tế đã cố tình tìm cách vô hiệu hóa các áp lực cải cách kinh tế (ví dụ cải cách doanh nghiệp nhà nước, mở cửa và thực hiện cơ chế thị trường cho những ngành và những sản phẩm cam kết tự do hóa theo các thỏa thuận tự do hóa thương mại song phương và đa phương…), do tư duy lợi ích nhóm, cục bộ, hoặc bảo thủ trước tự do hóa v.v…

Hai nguyên nhân cuối cùng được nêu trong bản kế hoạch là năng lực bộ máy hành chính quản lý nhà nước về kinh tế còn hạn chế, và vai trò giám sát các tổ chức chính trị - xã hội và người dân đối với tái cơ cấu nền kinh tế còn chưa được phát huy đầy đủ. Hai nguyên nhân này một mặt đã thừa nhận mối liên hệ trực tiếp với yếu tố con người, nhưng mặt khác, đã không đi sâu hơn trong việc chỉ ra nguyên nhân thực sự làm cho năng lực bộ máy hành chính còn hạn chế và việc giám sát của dân còn chưa được phát huy đầy đủ.

Ở điểm này, cũng cần nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng chính những cá nhân và tổ chức liên đới trong việc xây dựng bộ máy hành chính quản lý nhà nước phải chịu trách nhiệm cho việc năng lực của bộ máy này còn hạn chế. Chẳng hạn, nạn “chạy chức”, “chạy quyền” diễn ra tràn lan là một nguyên nhân làm tha hóa, suy giảm nghiêm trọng chất lượng và năng lực của bộ máy hành chính. Nhưng trên thực tế thì cũng chưa “tóm” được ai nhận “chạy chức”, “chạy quyền”, và cũng chưa thấy ai phải chịu trách nhiệm để tệ nạn này diễn ra tràn lan bao năm nay.
Còn chuyện không phát huy được vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và người dân, ở đây có nguyên nhân các tổ chức chính trị - xã hội này đã không làm tròn trách nhiệm giám sát, nên việc xử lý phải bao gồm giải thể những tổ chức này để đỡ phải tốn ngân sách “nuôi báo cô” chúng, hoặc phải tái cơ cấu chính những tổ chức này để chúng hoạt động có hiệu quả hơn. Cũng có thể có nguyên nhân các tổ chức này bị các cơ quan liên đới “trói tay”, vô hiệu hóa, nên cũng phải phân tích ai đã “trói tay” họ và như thế nào để đưa ra biện pháp xử lý đích đáng.

Với sự giám sát của người dân không được phát huy, nguyên nhân chủ yếu từ sự ngăn cản, không hợp tác hay gây khó dễ từ phía các cơ quan công quyền. Nên biện pháp xử lý cũng phải nhằm vào những “nút thắt” này.

Tóm lại, nguyên nhân của những nguyên nhân gây ra những hạn chế trong tái cơ cấu nền kinh tế chính là những hạn chế về năng lực, phẩm chất, và sự sẵn lòng với tái cơ cấu của những cá nhân liên đới trong bộ máy công quyền quản lý và điều hành nền kinh tế. Chỉ khi nào đạt được đồng thuận về vấn đề này thay vì đổ lỗi cho những lý do có vẻ khách quan thì mới mong công cuộc tái cơ cấu thành hiện thực. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).