Việt Nam cho đến
nay đã đàm phán và ký kết nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương,
nhiều hiệp định trong số này đã có hiệu lực mà đáng kể nhất trong số này là TPP
và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam EU.
Tuy vậy, nhận thức
về tự do hóa thương mại còn nhiều lệch lạc, không chỉ trong một bộ phận người
dân mà còn ngay cả trong một bộ phận giới chức.
Lệch lạc đầu tiên
là tuy đã hội nhập, đã cam kết mở cửa nhiều thị trường hàng hóa và dịch vụ trong
nước cho cạnh tranh của các nước đối tác, nhưng nhiều người vẫn cứ cố níu kéo,
cản trở sự cam kết mở cửa này bằng nhiều cách, chủ yếu là dùng những hàng rào bảo
hộ phi thuế quan. Một ví dụ điển hình là ngành sản xuất và kinh doanh ô tô. Các
cam kết tự do hóa thương mại với ASEAN, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên
minh kinh tế Á Âu, và sắp tới là với EU có những điều khoản về mở cửa thị trường
ô tô ở Việt Nam cho ô tô nhập khẩu từ những thị trường này. Tuy vậy, hiện nay
nhiều người, nhiều tổ chức vẫn đang vận động đưa vào luật ngành, nghề sản xuất,
nhập khẩu và kinh doanh ô tô thành ngành, nghề kinh doanh có điều kiện với mục
đích không chỉ đảm bảo an toàn cho người sử dụng mà còn chủ yếu là để làm khó
thêm ô tô nhập khẩu và bảo hộ ngành công nghiệp ô tô trong nước đang loay hoay
với chiến lược phát triển nhưng lại vẫn đang được hưởng lợi lớn nhờ thuế nhập
khẩu cao và nhiều quy định làm khó ô tô nhập khẩu.
Đương nhiên là những
người và tổ chức vận động bảo hộ ngành công nghiệp ô tô nội địa có lý do thuyết
phục cho việc này vì ngành ô tô là một ngành quan trọng với mọi nền kinh tế.
Tuy vậy, quan trọng là một chuyện nhưng có nhất thiết phát triển bằng mọi cách
và có phát triển được không lại là một chuyện khác. Thực tế cho thấy không phải
nước nào cũng thành công với ngành công nghiệp ô tô, nếu như ngành này không là
thế mạnh cạnh tranh của họ. Hiện tại Việt Nam cũng chẳng có thế mạnh gì có thể
dẫn đến sự phát triển vững chắc của ngành công nghiệp ô tô trong nước, ngoài một
lợi thế duy nhất là dân số đông, hứa hẹn một thị trường tiêu thụ có tốc độ tăng
trưởng nhanh trong… tương lai!
Bù lại, khi hội
nhập qua các hiệp định thương mại tự do, chúng ta được hưởng lợi từ sự mở cửa
thị trường nội địa của các nước đối tác cho những ngành nghề mà Việt Nam có lợi
thế, chủ yếu từ khai thác lực lượng lao động dồi dào và giá tương đối rẻ, như
may mặc, da giày, thủy sản, lắp ráp v.v…, cũng như từ sự lỏng lẻo về bảo vệ môi
trường. Sự đánh đổi các lợi thế này giữa Việt Nam và các nước là theo đúng lý
thuyết về thương mại tự do và lẽ ra không phải là điều đáng ngạc nhiên hay thất
vọng với bất cứ một ai trước và sau khi ký kết các hiệp định thương mại tự do với
nước ngoài.
Vì vậy, nếu cứ
còn lấn cấn giữa lợi ích với thiệt hại khi tham gia các hiệp định thương mại tự
do thì tốt nhất là hãy sớm chủ động rút lại những cam kết này, như cách mà ông
Trump, Tổng thống mới của Mỹ đã chủ trương như vậy với TPP cho nước Mỹ từ khi
đang tranh cử. Ngược lại, nếu đã cam kết mà vẫn cứ ngấm ngầm và cả công khai
tìm mọi cách để “lách luật”, lách các cam kết với nước đối tác bằng những cách
thức “khôn lỏi” như nêu trên thì hoặc chúng ta sẽ bị các nước đối tác trả đũa,
hoặc các cam kết này sẽ phải bị xem xét lại, vì không có quốc gia nào lại cam
chịu thiệt thòi một cách quá đơn giản và vô lý như vậy.
Một lệch lạc phổ
biến khác về tự do hóa thương mại tương tự là quan niệm (dù đã hội nhập sâu rộng)
phải quyết xây cho bằng được một nền kinh tế có sự “phát triển hài hòa” giữa
các ngành kinh tế, chắc có nghĩa là các ngành kinh tế phải có sự phát triển
tương đương nhau “một chín, một mười”, ví dụ từ ngành dệt may đến ngành tự động
hóa. Rồi nữa, phải có chiến lực phát triển sao cho đảm bảo gần như “tự cung tự
cấp” trong nhiều ngành như ngành thép vì nếu không thì sẽ dẫn đến nhập siêu lớn,
gây bất ổn vĩ mô…
Quan niệm “phát
triển hài hòa” theo diễn giải trên là một thực tế, được thể hiện ở chiến lực
phát triển “quả mít”, theo đó có quá nhiều ngành được xác định là ngành ưu
tiên, ngành mũi nhọn. Kể cả với một nền kinh tế đóng cửa thì chiến lược này vẫn
sẽ chắc chắn thất bại bởi nguồn lực kinh tế có hạn, không thể đáp ứng yêu cầu
phát triển cùng một lúc của nhiều ngành khác nhau. Điều này cũng tương tự như một
gia đình nghèo đông con, nếu không dồn sức cho đứa con nào có khả năng học nhất
mà cứ chia đều ra thì đứa nào rồi cũng sẽ học hành làng nhàng như đứa nào.
Trong thời đại hội nhập như hiện nay thì chiến lược này càng sớm thất bại vì giờ
đây còn có thêm sức ép là sự cạnh tranh từ bên ngoài lên những ngành vốn đã ốm
yếu trong nước, trong khi những ngành có khả năng phát triển theo thế mạnh cạnh
tranh thì lại không được đầu tư đầy đủ.
Chuyển sang quan
niệm ngành nào mà nhu cầu trong nước lớn, đang nhập siêu thì phải tìm mọi cách
để phát triển, như ngành thép là một ví dụ điển hình. Nhiều người cho rằng Việt
Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh so với thép nhập khẩu như có cảng nước sâu, có
quặng sắt và nhiều khoáng chất cần cho sản xuất thép dồi dào, nhân công giá rẻ…
Điều này ít nhiều là đúng nhưng chưa đủ. Về quặng sắt và các khoáng chất cần
cho sản xuất thép, Việt Nam tuy có thể có với trữ lượng lớn nhưng điều quan trọng
là điều kiện khai thác của mỏ có thuận lợi không, và chi phí khai khoáng liệu
có đủ thấp để đảm bảo rằng chi phí đưa quặng đến chân công trình luyện thép sẽ
thấp hơn chi phí cho quặng nhập khẩu cùng chất lượng hay không. Điều này chỉ được
đảm bảo khi tối thiểu phải có một cơ sở hạ tầng và công nghệ cho khai khoáng và
vận chuyển phát triển, là điều mà Việt Nam đang thiếu. Việc Thép Hòa Phát mặc
dù có mỏ sắt trong nước nhưng vẫn phải nhập khẩu quặng sắt cho thấy sản xuất
trong nước không nhất thiết là kinh tế nhất.
Ngoài ra, để thực
sự ngành thép nội địa có sức cạnh tranh thì tất yếu phải phát triển các nhà máy
thép dùng công nghệ lò cao, hiện đại đồng thời rất tốn kém. Như vậy, ngoài vấn
đề là… tiền đâu, sự đi sau về đầu tư công nghệ lò cao làm các nhà máy thép ở Việt
Nam khó cạnh tranh được với các nhà máy thép nước ngoài đã khấu hao máy móc thiết
bị từ lâu, làm cho bài toán lợi thế trở nên mù mờ hơn. Tất nhiên Việt Nam vẫn có
thể dốc sức đầu tư phát triển những thứ này, nhưng như thế thì lại vấp phải bài
toán nhà nghèo đầu tư cho con học ở trên.
Nhân bàn về trữ
lượng quặng sắt với chuyện tự chủ sản xuất trong nước, cũng xin đưa thêm một ví
dụ là về ngành thép Ấn Độ. Nước này ước tính có tới hơn 13 tỉ tấn quặng sắt các
loại, và ngành luyện thép nước này hàng năm sản xuất ra trên dưới 90 triệu tấn
thép. Thế nhưng nước này hàng năm vẫn phải nhập hàng chục triệu tấn quặng sắt từ
Úc, Canada, hay Nam Phi vì cung trong nước không đủ đáp ứng, với nhiều lý do từ
vấn đề bảo vệ môi trường đến cơ sở hạ tầng kém phát triển hay chất lượng quặng
không tốt… Đồng thời nước này cũng phải đương đầu với thép nhập khẩu giá rẻ hơn
(và chất lượng tốt hơn) không chỉ từ Trung Quốc mà còn cả từ Nhật, Hàn Quốc là
những nước đã có các hiệp định thương mại tự do với Ấn Độ, làm cho Ấn Độ chẳng
còn mấy cớ để buộc tội họ bán phá giá.
Bởi vậy, với Việt
Nam, thay vì chủ quan cho rằng ngành thép là ngành có lợi thế cạnh tranh theo
tư duy đơn giản là có quặng sắt, có đầy đủ các yếu tố để phát triển nên phải đầu
tư, phải bảo hộ để nó phát triển bất chấp Việt Nam đã cam kết mở cửa, để cho
thép ngoại tự do cạnh tranh với thép nội, thì chúng ta nên chấp nhận cuộc chơi
mang tên “hội nhập”. Nghĩa là hãy để cho các chủ thể của thị trường tự tính
toán bài toán chi phí và lợi ích trong ngành thép mà không có sự trợ giúp đặc
biệt của nhà nước ngoài những hỗ chung như cho các ngành nghề khác. Nhà nước
không nên đưa ra những biện pháp trợ giá ngầm như hạ giá thuê đất, ưu đãi đặc
biệt về thuế, phí, và bảo vệ môi trường, hay giữ giá điện thấp hơn giá bán cho
các ngành khác, hoặc thấp hơn giá thành… để khuyến khích đầu tư vào ngành thép.
Và cũng tương tự
như với ngành ô tô, nếu vẫn cứ tiếc rẻ và muốn phát triển ngành thép hay bất cứ
ngành nào khác không/chưa có lợi thế cạnh tranh thì tốt nhất là đừng hội nhập nữa!
No comments:
Post a Comment