Wednesday 30 March 2016

Quyết định đúng đắn (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, ngày 30/3/2016)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=369728

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có công văn yêu cầu các ngân hàng thương mại dừng ký mới hợp đồng tín dụng cho vay nhà theo gói ưu đãi 30 nghìn tỷ đồng từ ngày 31.3.2016. Lý do là, theo NHNN số tiền cam kết cho vay của các ngân hàng đối với khách hàng trong khuôn khổ gói này đã đạt trên 30 nghìn tỷ đồng.

Điều đáng chú ý là trong công văn gửi các ngân hàng thương mại nói trên, NHNN có nêu rằng họ đã có công văn báo cáo xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, trong trường hợp đến ngày 1.6.2016 (các ngân hàng thương mại) chưa giải ngân hết 30 nghìn tỷ đồng thì NHNN xem xét gia hạn giải ngân tái cấp vốn để các đối tượng khách hàng cá nhân, hộ gia đình vay để mua, thuê nhà ở; xây dựng, cải tạo, sửa chữa lại nhà ở của mình tiếp tục được giải ngân với lãi suất ưu đãi đến hết gói 30 nghìn tỷ đồng của toàn bộ chương trình. 

Quyết định trên của NHNN là một quyết định đúng đắn và kịp thời vì đã sửa chữa, lấp lỗ hổng liên quan đến điều khoản NHNN sẽ dừng tái cấp vốn khi giải ngân hết số tiền khoảng 30 nghìn tỷ đồng nhưng tối đa là đến ngày 1.6.2016 như trong Thông tư số 11/2013 ngày 15.3.2013 của NHNN.

Theo tinh thần của Thông tư 11 này, NHNN sẽ dừng tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại tham gia cho vay gói 30 nghìn tỷ đồng chậm nhất vào ngày 1.6.2016. Trong khi đó, nhiều ngân hàng thương mại đã trót ký và cam kết cho vay các đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn được vay với lãi suất ưu đãi trong vòng tối đa 15 năm (theo Thông tư 32/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 11/2013). Nay nếu NHNN dừng tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại này thì sẽ gây thiệt hại cho họ nếu họ phải tuân thủ và thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng với khách hàng khi phải tiếp tục giải ngân các hợp đồng đã ký cho đến nay với cam kết khách hàng sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi trong suốt 15 năm (cho đến năm 2028).

Các ngân hàng thương mại cũng không thể nại cớ rằng NHNN dừng tái cấp vốn sau ngày 1.6.2016 nên họ cũng phải dừng cho vay với lãi suất ưu đãi cho khách hàng sau ngày này. Vì Thông tư 11/2013 và Thông tư 32/2014 đều không có điều khoản nào quy định rằng các ngân hàng thương mại phải dừng giải ngân với lãi suất ưu đãi sau ngày 1.6.2016 cho dù họ đã ký hợp đồng cam kết cho khách hàng vay với lãi suất ưu đãi đến năm 2028.

Nay với công văn báo cáo xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ và công văn gửi các ngân hàng thương mại của NHNN nói trên thì rất có khả năng các ngân hàng sẽ được NHNN tái cấp vốn để họ tiếp tục giải ngân với lãi suất ưu đãi cho số tiền cam kết cho vay còn lại mà chưa được giải ngân trong gói 30 nghìn tỷ đồng. Theo NHNN, đến nay đã giải ngân được 21 nghìn tỷ đồng, tức vẫn còn khoảng 9 nghìn tỷ đồng các ngân hàng đã cam kết với khách hàng mà chưa giải ngân (bởi một phần các hợp đồng cho vay trong gói 30 nghìn tỷ đồng là cho các hợp đồng mua nhà và giải ngân theo tiến độ công trình). Như vậy, người vay tiền trong gói này có thể tạm thời yên tâm rằng họ sẽ không phải chuyển sang vay với lãi suất thương mại như dư luận đã lo ngại trong suốt thời gian vừa qua.

Tuesday 29 March 2016

Cơ hội tối đa hóa lợi nhuận từ "mánh" đánh tráo lãi suất (Bài đăng trên CafeF, ngày 29/3/2016, tiêu đề do báo đặt)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/co-hoi-toi-da-hoa-loi-nhuan-tu-manh-danh-trao-lai-suat-20160329091632006.chn

Trong bài trước người viết đã nói qua về cơ chế đánh tráo lãi suất theo kiểu nhà đầu tư dùng khoản tiền USD của mình làm thế chấp để vay VND sau đó gửi tiết kiệm và đổi ngược lại ra USD khi đến hạn và thu được một khoản lãi nào đó.

Cơ chế này cụ thể có thể diễn ra như sau. Vẫn giả sử nhà đầu tư huy động 1.000 USD bên ngoài Việt Nam với lãi suất 2%/năm trong 1 năm. Người này mang 1.000 USD về Việt Nam, gửi vào ngân hàng thương mại Việt Nam hưởng lãi 0% với kỳ hạn 1 năm. Người này dùng sổ tiết kiệm 1.000 USD thế chấp để vay từ ngân hàng nào đó được một khoản VND là 22,050 triệu trong 1 năm với lãi suất 7%/năm, tương đương với 980 USD theo tỷ giá 22.500 VND/USD. Lưu ý rằng như vậy ngân hàng cho vay VND chỉ cho vay bằng 98% số tiền USD dùng làm thế chấp để đề phòng trường hợp VND lên giá ít hơn hoặc bằng 2% sau 1 năm (một khả năng khá khó xảy ra trong bối cảnh của Việt Nam hiện tại). Nếu không làm vậy thì khi VND lên giá so với USD, số tiền gốc cho vay VND sẽ có thể trở nên có giá trị hơn số USD thế chấp, gây thiệt hại cho ngân hàng.

Tiếp theo, nhà đầu tư này đem gửi 22,050 triệu đồng vào ngân hàng cho kỳ hạn 1 năm, với lãi suất 7%/năm. Để đơn giản, ở đây ta giả sử không có chênh lệch kỳ hạn giữa tiền vay USD từ nước ngoài và tiền gửi USD vào ngân hàng ở Việt Nam. Và cũng không có chênh lệch kỳ hạn giữa tiền vay VND từ và gửi VND vào ngân hàng thương mại Việt Nam. Nói cách khác, tất cả các loại tiền gửi và vay đều bắt đầu cùng một ngày và đáo hạn vào cùng một ngày. Và cũng để đơn giản, ta giả sử lãi suất cho vay và gửi tiết kiệm VND đều là 7%/năm.

Sau 1 năm, nhà đầu tư thu được 23,594 triệu đồng từ khoản gửi tiết kiệm 1 năm của mình. Đến thời điểm này, tùy biến động của tỷ giá mà nhà đầu tư quyết định hành động tiếp theo. Ví dụ, giả sử VND mất giá tới 7,5% thành 24.188 VND/USD, nên số tiền VND này chỉ còn tương đương với 975 USD, tức là còn nhỏ hơn số tiền gốc 1.000 USD ban đầu gửi vào ngân hàng. Trong trường hợp này, nhà đầu tư tốt nhất là đem trả lại 23,594 triệu VND là số tiền gốc và lãi người này đã vay từ ngân hàng dựa trên hợp đồng vay thế chấp sổ gửi tiết kiệm 1.000 USD. Kết cục là nhà đầu tư không thu được lợi gì từ khoản đầu tư 1.000 USD nhưng bảo toàn được khoản vốn này so với trường hợp bán đứt 1.000 USD ngày từ 1 năm trước thu được 22,5 triệu rồi đem gửi tiết kiệm để rồi chỉ thu được 995 USD (=22,5 triệu VNDx1,07/24.188).

Nếu VND chỉ mất giá 2,2% thành 23.000 VND/USD thì số 23,594 triệu VND mà nhà đầu tư có trong tay là tương đương với 1.026 USD. Để hiện thực hóa lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất, nhà đầu tư chỉ cần đơn giản là đổi 23,594 triệu VND lấy 1.026 USD rồi bỏ đi, không quay trở lại ngân hàng để giải chấp khoản tiền vay 22,050 triệu VND cộng tiền lãi 1 năm (tổng cộng thành 23,594 triệu) nữa, và cũng tức là chấp nhận mất 1.000 USD gửi ở ngân hàng thương mại ban đầu. Nhưng bù lại thì nhà đầu tư vẫn có lãi 6 USD từ số tiền gốc và lãi vay USD từ nước ngoài ban đầu (1.020 USD).

Trường hợp VND không mất giá thêm sau 1 năm, tức tỷ giá vẫn là 22.500 VND/USD thì số tiền VND có trong tay nhà đầu tư lúc này sẽ tương đương với 1.048,6 USD (=23,594 triệu VND/22.500), và nếu nhà đầu tư không quay lại ngân hàng giải chấp nữa thì người này vẫn thu được 28,6 USD tiền lãi so với 1.020 USD gốc và lãi vay từ nước ngoài ban đầu. Tất nhiên là số lãi này sẽ nhỏ hơn trong trường hợp nhà đầu tư chuyển đổi ngay 1.000 USD tiền vay ban đầu ra thành 22,500 triệu VND rồi gửi ngân hàng kỳ hạn 1 năm hưởng lãi 7% để thu được 24,075 triệu VND, tức tương đương với 1.070 USD, nhưng đây chỉ là một may mắn cho nhà đầu tư vì tỷ giá đã không biến động. Nếu tỷ giá biến động theo hướng VND mất giá 7,5% như trên thì nhà đầu tư đã chịu lỗ nếu so với số tiền USD ban đầu đi vay.

Như vậy, cơ chế kinh doanh đánh tráo lãi suất nói trên tạo ra thêm cơ hội cho nhà đầu tư tối đa hóa lợi nhuận của mình trong khi hạn chế được rủi ro khi VND bị mất giá mạnh. Nói cách khác, thay vì chuyển đổi thẳng từ USD sang VND rồi gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất cao hơn và chịu rủi ro về tỷ giá và không chắc đã thu về đủ số USD ban đầu bỏ ra, cơ chế đánh tráo lãi suất kể trên đảm bảo cho nhà đầu tư luôn bảo toàn và/hoặc thu được lợi nhuận tính theo USD ở các mức độ khác nhau tùy thuộc sự mất giá của VND trong tương lai.

Monday 28 March 2016

Vẫn đánh tráo được lãi suất ở Việt Nam (Bài đăng trên CafeF, 28/3/2016)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/van-danh-trao-duoc-lai-suat-o-viet-nam-20160327224936426.chn

Gần đây báo chí đã cho biết có những trường hợp một số người dân dùng nguồn vốn USD của mình gửi vào ngân hàng lãi suất 0%/năm để lấy sổ tiết kiệm rồi dùng sổ tiết kiệm đó cầm cố vay VND lãi suất chỉ khoảng 6-7%/năm, sau đó dùng tiếp nguồn VND đó đi gửi ngân hàng khác với lãi suất 8%/năm. Như vậy, người gửi ngoại tệ vừa có được chênh lãi suất từ 1-2%/năm vừa có khả năng hưởng lợi khi tỷ giá tăng (VND mất giá).

Trước hiện tượng này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết hiện tượng này không dễ thực hiện vì việc vay VND với lãi suất 6-7%/năm bằng thế chấp sổ tiền gửi USD sẽ rất hạn chế về kỳ hạn, khoảng 1-6 tháng, trong khi đem gửi số VND vào ngân hàng để hưởng lãi suất 8%/năm thì sẽ thường phải gửi ở các kỳ hạn dài, tạo ra khoảng trống kỳ hạn, tạo rủi ro cho việc đánh tráo lãi suất và đảo vốn.

Quả thật, việc tìm kiếm chênh lệch lãi suất VND đủ lớn giữa các ngân hàng và quản lý rủi ro kỳ hạn giữa tiền vay VND và tiền gửi VND là không hề dễ dàng nên có thể nói việc đánh tráo lãi suất theo cách trên đa phần chỉ tồn tại trên lý thuyết.

Tuy vậy, sự việc có thể sẽ khác nếu nhà đầu tư dùng vốn USD huy động bên ngoài Việt Nam với lãi suất thấp, đem thế chấp để vay VND tại ngân hàng sau đó gửi tiết kiệm bằng VND với gần như bất cứ kỳ hạn nào, chẳng hạn 6 tháng hoặc 1 năm, hưởng lãi suất tương ứng. Khi khoản tiền tiết kiệm VND đến hạn, họ rút ra rồi đổi ngược trở lại USD và chuyển ra nước ngoài. Lúc này, lợi nhuận của khoản đầu tư đánh tráo lãi suất này sẽ phụ thuộc vào biến động tỷ giá VND/USD và chênh lệch lãi suất giữa vay USD ở nước ngoài và gửi VND ở ngân hàng trong nước.

Cụ thể cơ chế này như sau. Ví dụ, nhà đầu tư huy động 1.000 USD bên ngoài Việt Nam với lãi suất 2%/năm trong 1 năm. Người này mang 1.000 USD về Việt Nam, chuyển sang VND theo tỷ giá 22.500 VND/USD được 22,5 triệu VND và gửi vào ngân hàng dưới dạng tiết kiệm kỳ hạn 1 năm, hưởng lãi suất 7%/năm. Sau 1 năm, số tiền VND cả gốc và lãi của nhà đầu tư tăng lên thành 24,075 triệu. Vào thời điểm đó, giả sử tỷ giá VND/USD tăng lên thành 23.000 VND/USD. Với tỷ giá này, nhà đầu tư chỉ mua lại được 1.047 USD. So với số tiền USD vay ban đầu kèm lãi có tổng số là 1.000+20=1.020 thì nhà đầu tư sẽ thu được 27 USD tiền lãi (tức 2,7% lợi nhuận tính trên số USD huy động ở nước ngoài mang về Việt Nam đầu tư).

Để tính chi li hơn thì nhà đầu tư còn phải mất thêm phí chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam và ở chiều ngược lại nên tỷ suất lợi nhuận đầu tư theo kiểu này có thể sẽ nhỏ hơn 2,7%, tùy thuộc mức phí chuyển tiền 2 chiều.

Tóm lại, nhà đầu tư vẫn có thể thu lợi nhuận lớn khi tỷ giá VND/USD được giữ tương đối ổn định (nếu VND có mất giá thì cũng không đáng kể) trong khi lãi suất VND đứng ở mức cao, chênh lệch lớn với lãi suất huy động USD ở nước ngoài như hiện nay. Ẩn số, và cũng là rủi ro, trong bài toán này, ngoài biến động tỷ giá VND/USD, là chi phí và rủi ro khi chuyển tiền 2 chiều giữa Việt Nam và nước ngoài (chủ yếu ở chiều từ Việt Nam ra nước ngoài), cũng như chi phí và rủi ro hoán chuyển giữa VND và USD (chủ yếu ở chiều từ VND sang USD) ở Việt Nam.

Về nguyên tắc, các ngân hàng Việt Nam chỉ bán ngoại tệ cho một số đối tượng nhất định, nên nhà đầu tư đánh tráo lãi suất chưa chắc đã mua lại được số USD cần thiết để chuyển ra nước ngoài. Nhưng thực tế thì điều này vẫn “lách” được, ít nhất là nhờ sự tồn tại của “chợ đen” ngoại tệ. Tất nhiên là rủi ro thì vẫn còn đó, khi việc mua bán ngoại tệ kiểu này bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và khoản tiền được giao dịch có khả năng bị tịch thu nếu bị phát hiện.

Cũng theo nguyên tắc, chỉ có một số trường hợp hữu hạn theo quy định của pháp luật thì mới được chuyển USD ra nước ngoài. Nhưng điều này ít ra thì cũng có thể “lách” được nhờ sự tồn tại của những đường dây chuyển tiền lậu với chi phí chuyển tiền trong khoảng một vài phần trăm tính trên số tiền chuyển. Nhà đầu tư bên cạnh chuyện phải trả chi phí này còn phải chịu thêm rủi ro là số tiền được hứa chuyển “một đi không trở lại”. Ngoài ra, cũng không thể phủ nhận nhiều kênh chuyển tiền “lậu” nhưng mà… hợp pháp, ví dụ như lập hợp đồng nhập khẩu khống, hoặc khai khống tăng giá trị hợp đồng để hợp pháp chuyện được mua USD từ ngân hàng thương mại Việt Nam và sau đó chuyển USD ra nước ngoài.
Ngoài ra, vẫn còn nhiều trường hợp kinh doanh đánh tráo lãi suất “cò con” khi thực hiện ở quy mô tương đối nhỏ kết hợp xuất nhập cảnh ra vào Việt Nam, mang theo đúng số ngoại tệ được phép theo quy định khi xuất cảnh, và không bị những rủi ro liên quan đến chuyển tiền ra vào Việt Nam.

Vậy, trong bối cảnh sự tồn tại của thị trường chợ đen ngoại tệ và các đường dây chuyển tiền lậu là điều hầu như không thể dẹp nổi thì bài học rút ra từ phương thức đánh tráo lãi suất trên là NHNN không nên cam kết một tỷ giá ở một mức cố định nào đó hoặc trong một phạm vi nhất định nào đó làm cơ sở cho nhà đầu tư và đầu cơ tiến hành kinh doanh đánh tráo lãi suất.

Đồng thời, lãi suất VND cũng không nên để đến mức bị “treo” quá cao so với khu vực và quốc tế (đằng nào thì lãi suất cao cũng là điều không tốt cho nền kinh tế, trừ khi có lạm phát cao). Chính sách tiền tệ của NHNN vì thế phải linh hoạt hơn để tạo dựng được một mặt bằng lãi suất hợp lý, kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước nhưng không kích thích các hành vi kinh doanh đánh tráo lãi suất.

Thursday 24 March 2016

Bức tranh ngân hàng Việt Nam 10 năm qua – Bất ổn tự tạo! (Bài đăng trên TBKTSG, ngày 24/3/2016, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/143967/Buc-tranh-ngan-hang-Viet-Nam-10-nam-qua-Bat-on-tu-tao.html

Tác giả Nguyễn Xuân Thành, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright gần đây đã công bố một bản thảo báo cáo với tựa đề: “Ngân hàng thương mại Việt Nam: Từ những thay đổi về luật và chính sách giai đoạn 2006-2010 đến các sự kiện tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015”.
Đây là một báo cáo được soạn thảo rất công phu, đầy ắp dữ liệu và sự kiện, được sắp xếp hợp lý theo trình tự thời gian và mạch chủ đề. Trong phần lớn báo cáo, tác giả đã tập trung mô tả chi tiết và sống động toàn bộ bức tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong 10 năm qua, đồng thời khéo léo gửi gắm những phân tích và nhận định riêng của mình vào trong những câu hỏi bỏ ngỏ ở phần đầu mỗi chương, mỗi phần của bài viết, mà hầu như đã được trả lời hộ bởi tác giả căn cứ theo cách đặt và nội dung của câu hỏi.
Tuy vậy, một trong những nhược điểm trong phương pháp phân tích bằng cách đặt ra những câu hỏi bỏ ngỏ cho từng vấn đề ở từng chương như của tác giả là nó đã vô tình bẻ gẫy tính liên kết giữa các chương, các phần, các nội dung trong bài, làm người đọc khó xâu chuỗi được các sự kiện và hiểu rõ được những vấn đề có tính khái quát hơn, chẳng hạn điều gì đã tạo ra, đã dẫn đến một hệ thống ngân hàng như hiện nay, và cần làm gì để tránh “vết xe đổ” trong quá khứ?
Trong bài viết này chúng ta sẽ bổ sung thêm một số luận điểm và phân tích dựa theo các vấn đề mà tác giả đặt ra để đi đến một số khái quát hóa về hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua và những năm sắp tới.
Vấn đề đầu tiên mà tác giả đặt ra là việc cho phép thành lập các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) nông thôn quy mô nhỏ thành NHTMCP đô thị hoạt động trên phạm vi toàn quốc là chính sách đúng để thúc đẩy phát triển tài chính hay là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhiều ngân hàng trong số này trở thành yếu kém và mất khả năng chi trả?
Công bằng mà nói, bản thân việc cho phép thành lập các NHTMCP nông thôn thành NHTMCP đô thị không phải là sai, thậm chí còn là một điều kiện cần nếu muốn có các ngân hàng thương mại có đầy đủ chức năng hoạt động thông thường từ những ngân hàng hiện có mà không phải mất thời gian, công sức xây mới từ đầu. Tất nhiên, sự yếu kém sau này của chúng là có thật, nhưng đó là bởi những lý do khác, mà sau này mới bộc lộ ra, ví dụ, qua vấn đề sở hữu chéo.
Vấn đề thứ hai mà tác giả đề cập đến là quy định bắt buộc tăng vốn điều lệ (VĐL) lên 3.000 tỷ đồng trong vòng 4 năm liệu có phải là quyết định đúng để tăng cường sự vững mạnh của các NHTM hay là nguyên nhân dẫn tới tình trạng vốn chủ sở hữu ảo và sở hữu chéo, từ đó làm suy yếu hệ thống ngân hàng Việt Nam?
Đến đây, ta đã bắt đầu thấy được sự liên kết giữa việc thành lập hàng loạt NHTMCP đô thị và việc tăng vốn bắt buộc. Nêu lại diễn biến quá trình tăng VĐL khá chật vật trong giai đoạn 2006-2010, dường như tác giả muốn chỉ ra rằng việc cấp phép ồ ạt thành lập hàng loạt ngân hàng từ một cơ sở yếu kém cộng với việc bắt buộc các ngân hàng này phải đạt được VĐL lớn hơn quy mô vốn thực có của chúng nhiều lần đã đẩy các ngân hàng vào con đường “làm liều” sau này.
Tuy vậy, cũng phải công bằng mà nhìn nhận rằng việc bắt buộc phải tăng VĐL tất nhiên có thể là không cần thiết, không luôn đồng nghĩa với tăng cường sự vững mạnh của các NHTM nhưng nó cũng không phải là sai, chỉ có ở Việt Nam, vì tác giả cũng đồng ý rằng cũng có nhiều quốc gia quy định NHTM phải có VĐL ở một mức tối thiểu nào đó. Như vậy, chuyện đáng nói hơn là cách thức nào để các NHTM này gia tăng được VĐL và nó có phù hợp với luật pháp và mong muốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay không. Điều này được giải đáp phần nào ở chương nói về sở hữu, cho vay và đầu tư chéo như là một cách thức giúp các NHTM tăng được VĐL như quy định.
Cũng theo tác giả, NHNN một mặt đã đánh giá được vấn đề trầm trọng của sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng (TCTD), nhưng, mặt khác, NHNN lại cho rằng: “Việc kiểm tra phát hiện sở hữu chéo là rất khó khăn do thiếu bằng chứng pháp lý”. Như thế, có thể nói sự bất cập trong thanh tra, giám sát và khả năng xử lý vấn đề của NHNN, chứ không phải bản thân việc cho phép thành lập hàng loạt NHTMCP cũng như quy định bắt buộc tăng VĐL là hai trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng sở hữu chéo tràn lan, càng làm suy yếu hệ thống ngân hàng. Nói cách khác, giả sử NHNN làm tốt và làm nghiêm thì đã không xảy ra tình trạng sở hữu và đầu tư chéo tràn lan, và sẽ chỉ có những NHTM nào có khả năng tăng VĐL một cách lành mạnh mới được phép tồn tại, nhờ đó tạo ra một hệ thống ngân hàng có chất lượng cao hơn.
Vai trò và trách nhiệm của NHNN còn được làm rõ hơn nữa trong chương nói về việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Với những dữ liệu và sự kiện được tác giả bố trí theo trình tự thời gian từ năm 2007 đến 2011 và theo chủ đề, bắt đầu từ chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2007, chuyển sang chính sách tiền tệ thắt chặt năm 2008, rồi lại một lần nữa chuyển thành chính sách tiền tệ nới lỏng năm 2009-2010 để rồi kết thúc ở chính sách tiền tệ thắt chặt năm 2011, người đọc sẽ thấy một cách rõ ràng các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng đã có những sai lầm, lại bị thay đổi thường xuyên và đột ngột ở mức độ cấp tập, với quy mô “quyết liệt”.
Bùng nổ tín dụng năm 2007 có nguyên nhân trực tiếp từ sai lầm chính sách ngoại hối khi NHNN mua vào một phần lớn trong số vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam năm đó lên tới 17,7 tỷ USD mà không trung hòa đúng mức lượng tiền đồng đối ứng tung ra nền kinh tế. Cung tiền mở rộng quá mức đã trực tiếp thổi bùng tăng trưởng tín dụng dẫn đến bong bóng chứng khoán và bất động sản, làm tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Và, cũng như tác giả chỉ ra, tuy NHNN cũng phần nào ý thức được mối nguy hiểm của mở rộng cung tiền ồ ạt nhưng biện pháp thắt chặt tiền tệ duy nhất lúc đó chỉ là nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng của các NHTM từ 5% lên 10%, một biện pháp xem ra là quá muộn và không đủ độ hữu hiệu cần thiết.
Sang đến năm 2008, để kiềm chế lạm phát đã vọt lên trên 20%/năm trong bối cảnh cung tiền mở rộng quá mức NHNN đã buộc phải thắt chặt cung tiền, và phải thắt chặt gấp và mạnh nhằm đưa nó trở lại mức tăng trưởng bình thường. Việc này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng khi bong bóng tài sản xì hơi, dẫn đến làm giảm mạnh chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại do nợ xấu tăng đột ngột. Tuy là việc cần thiết phải làm để sửa sai cho chính sách nới lỏng tín dụng quá bất cẩn của chính mình năm 2007 nhưng có lẽ NHNN đã quá cấp tập trong những bước đi chính sách của mình làm thị trường bị “phanh gấp” mà không kịp điều chỉnh.
Ở chiều hướng đối nghịch hoàn toàn, chính sách tiền tệ trong thời kỳ 2009-2010 lại được mở ra một cách cũng hết sức cấp tập, và “quyết liệt” (trừ việc tăng một điểm phần trăm các loại lãi suất của NHNN cuối năm 2009), với mục đích mà, theo như tác giả nhận định, là để “hỗ trợ tăng trưởng và ổn định vĩ mô”. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ nới lỏng cấp tập như vậy thì đương nhiên chỉ có tác dụng “hỗ trợ tăng trưởng” chứ không thể “ổn định vĩ mô” được, nếu hiểu ổn định vĩ mô là phải có lạm phát thấp, ổn định. Cũng vì nới lỏng cấp tập như vậy nên lại dẫn đến sự bùng nổ của thị trường tài chính với sự trở lại của các bong bóng tài sản, để rồi giai đoạn sau đó lại phải thắt chặt chính sách tiền tệ, dẫn đến sự suy sụp của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, sự mở rộng cấp tập và quá mức của chính sách tài khóa, thể hiện ra ở chính sách kích cầu, hỗ trợ lãi suất, an sinh xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng và nhà ở xã hội… cũng là một nguyên nhân cho sự bất ổn vĩ mô và sự trồi sụp của thị trường tài chính.
Tóm lại, nếu xâu chuỗi lại các sự kiện và các con số trong báo cáo trên thì sẽ thấy rõ các bất ổn đã và đang tồn tại hiện nay trong hệ thống ngân hàng là bất ổn tự tạo, xuất phát từ những sai lầm và yếu kém trong hoạch định và thực thi các chính sách của Chính phủ, của NHNN, với các chính sách thay đổi đột ngột và thường xuyên, từ thái cực này sang thái cực khác, mang tính tình thế, “chữa cháy” là nhiều hơn.

Monday 21 March 2016

Hạ lãi suất tiền gửi USD về 0% sao vẫn phải vay USD ở nước ngoài? – Trong câu hỏi đã có câu trả lời! (Bài đăng trên CafeF, 21/3/2016, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/lai-suat-usd-trong-nuoc-0-vi-sao-ngan-hang-van-di-vay-nuoc-ngoai-hang-tram-trieu-usd-20160319111905457.chn

Nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Lê Đức Thúy chỉ ra 2 vấn đề liên quan đến chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về % hồi cuối năm 2015 của NHNN.
Một là huy động ngoại tệ vẫn nhiều hơn cho vay. Điều này chứng tỏ găm giữ ngoại tệ trong dân đang tăng lên, việc đưa lãi suất USD về 0% cũng không làm giảm nhu cầu tích trữ ngoại tệ của thị trường. Chứng minh cho nhận định này, ông Thúy cho biết trong năm 2014, vốn huy động ngoại tệ chỉ tăng ở mức 4,7% so với năm trước, nhưng trong năm 2015, con số này đã tăng lên 14,3%, mức tăng gấp 3 lần. Trong khi đó, vốn huy động VNĐ có chiều hướng giảm tốc khi chỉ tăng 16,3% so với năm 2014, trong khi năm trước đó, con số này là 19,3%.
Hai là, trong khi vốn huy động USD tăng, người dân và doanh nghiệp lại có xu hướng dịch chuyển tiền gửi ngoại tệ từ có kỳ hạn sang không kỳ hạn. Rõ ràng, cùng một mức lãi suất bằng 0, việc gửi không kỳ hạn linh động hơn rất nhiều cho người găm giữ ngoại tệ. Việc này gây ra vấn đề các ngân hàng không phải lúc nào cũng huy động đủ vốn ngoại tệ để cho vay.
Hai nhận định trên của ông Thúy là rất xác đáng, chỉ rõ mặt trái và sự kém hiệu quả của chính sách lãi suất tiền gửi USD trên của NHNN, một chính sách mà đã nhận được không ít lời tán dương của nhiều chuyên gia và quan chức khi nó mới được ban hành.
Nhưng mặt khác, điều đáng nói là ông Thúy lại thắc mắc: “Tại sao trong bối cảnh lãi suất USD huy động trong dân là 0%, một ngân hàng Việt Nam lại phải đi vay ngoại tệ từ bên ngoài”. Cụ thể là ông Thúy đề cập đến việc một ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam mới đây phải vay 200 triệu USD từ Đài Loan.
Thực ra, câu trả lời cho thắc mắc trên của ông Thúy đã có phần lớn ở ngay trong 2 nhận định trên của ông.
Thứ nhất, do tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân đã tăng lên, sẽ càng có ít người dân muốn bán USD nắm giữ thành tiền đồng để gửi vào hệ thống ngân hàng hưởng lãi, dù lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi USD (đã xuống còn 0% từ cuối năm 2015), trong khi tỷ giá tiền đồng thì được trấn an là sẽ không có biến động mạnh nữa, nhất là kể từ khi NHNN đưa ra cơ chế tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày. Thứ hai, nếu người dân có gửi USD vào hệ thống ngân hàng thì họ chỉ gửi không kỳ hạn, có nghĩa là họ có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào có hại cho họ.
Từ 2 điều trên có thể thấy rõ rằng do tác động bất lợi gây ra bởi chính sách lãi suất tiền gửi USD 0% của NHNN nên hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không nhận được một lượng USD cần thiết từ nguồn tiền gửi của dân cư (và cả doanh nghiệp) để đáp ứng nhu cầu cho vay hoặc kinh doanh trong nước. Quan trọng không kém, lượng tiền gửi USD của dân cư và doanh nghiệp trong nước nếu có thì đã bị rút ngắn thời hạn, hầu hết thành không kỳ hạn, thay vì có kỳ hạn như trước khi NHNN ra chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về 0%.
Trong bối cảnh nguồn cung USD ở trong nước bị sụt giảm còn kỳ hạn gửi thì bị cắt ngắn, có rủi ro bị rút ra bất cứ lúc nào, các ngân hàng rất khó có  thể cân đối được số lượng và kỳ hạn giữa vốn huy động và vốn cho vay. Nên thường khi có nhu cầu về USD các ngân hàng thương mại (và doanh nghiệp) buộc phải tìm đến nguồn cung thương mại từ bên ngoài, và điều này giải thích tại sao có ngân hàng phải sang Đài Loan vay 200 triệu USD như nói ở trên.
Chưa hết, như báo chí đã đưa tin, nhiều ngân hàng hiện nay vẫn “đi đêm” với khách hàng có lượng tiền gửi USD đáng kể, thông qua chào mời trả lãi suất cho khoản tiền gửi của họ mà không thể hiện trên sổ sách để khó bị phát hiện bởi lực lượng thanh tra của NHNN. Khi các ngân hàng vẫn phải trả lãi cho nguồn USD huy động trong nước thì đương nhiên ở đầu ra, ví dụ là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, các ngân hàng này cũng phải tính lãi suất cho vay (cao hơn) khi họ cho vay các ngân hàng khác. Tương tự như vậy với các doanh nghiệp khi phải đi vay USD từ ngân hàng thương mại trong nước. Do đó, đôi khi vay từ nước ngoài lại rẻ hơn và/hoặc vay được nhiều hơn nếu so với chỉ trông chờ vào nguồn cung USD hữu hạn trong nước vốn đã bị thắt chặt thêm và làm biến dạng kỳ hạn một cách không thể lên kế hoạch sử dụng được bởi chính sách lãi suất tiền gửi ngoại tệ 0% của NHNN.
Cũng qua những phân tích về những tồn tại và bất hợp lý như trên, NHNN cần nhanh chóng xem xét, điều chỉnh lại chính sách chống đô la hóa của mình theo hướng hợp lý hơn, bằng những biện pháp hữu hiệu hơn những chính sách và biện pháp như hiện tại.

Friday 18 March 2016

Không thể đẩy phần thiệt sang cho người vay (Bài đăng trên TBKTSG, 18/3/2016, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

http://www.thesaigontimes.vn/143615/Khong-the-day-phan-thiet-sang-cho-nguoi-vay.html

Nghị quyết 02/2013 ngày 7/1/2013 của Chính phủ ban hành một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Một trong những giải pháp này là yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dành từ 20.000-40.000 tỷ đồng thông qua tái cấp vốn với lãi suất hợp lý và thời hạn tối đa 10 năm để hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại Nhà nước cho vay đối với các đối tượng để thuê, thuê mua nhà ở xã hội, cũng như nhà ở thương mại (là nhà có diện tích nhỏ hơn 70 m2, giá bán dưới 15 triệu đồng/m2). Đối tượng được vay là những người thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang.
Tuy nhiên, phải đến ngày 15/5/2013, Bộ Xây dựng và NHNN mới ban hành Thông tư 07/2013 và Thông tư 11/2013 để hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 02, trong đó gói 30.000 tỷ lần đầu tiên đề cập đến. Vốn cho gói này là từ các khoản cho vay tái cấp vốn của NHNN.
Khó khăn thực thi
Từ lúc ra đời, gói 30.000 tỷ gặp khá nhiều trở ngại. Đầu tiên, lãi suất cho vay ưu đãi được xác định là 6%/năm, nhưng sang đến năm 2014 được hạ xuống 5% để cho phù hợp hơn với tính chất “hỗ trợ” của gói này. Đồng thời, để thúc đẩy thêm tốc độ triển khai vốn đang diễn ra khá chậm chạp, NHNN cho phép thêm 8 ngân hàng thương mại cổ phần được tham gia vào gói này bên cạnh 5 ngân hàng ban đầu.
Vẫn thấy chưa đủ, tháng 8/2014, NHNN ban hành Nghị quyết 61/2014, sửa đổi một số điều của Nghị quyết 02/2013 để mở rộng thêm loại hình bất động sản và đối tượng được vay gói 30.000 tỷ. Đó là những bất động sản có giá không vượt quá 1,05 tỷ đồng, và các hộ gia đình có cải tạo, xây dựng mới nhà ở xã hội.
Tuy vậy, vì lý do này hay lý do khác, đến cuối năm 2015 mới chỉ có hơn 17.700 tỷ trong gói 30.000 tỷ được giải ngân tuy mức cam kết cho vay đã đạt 90%.
Bất an người vay
Đến thời điểm hiện tại, nhiều người “chưng hửng” xen lo lắng khi được biết việc giải ngân vốn vay ưu đãi từ gói 30.000 tỷ sẽ chấm dứt vào ngày 1/6 này. Nhiều người đi vay mới chỉ giải ngân được một phần nguồn vốn vay gói 30.000 đang phải đối mặt với mất khả năng thanh toán khi lãi suất cho phần dư nợ giải ngân từ sau 1/6/2016 sẽ là lãi suất cho vay thương mại cao hơn nhiều lãi suất cho vay ưu đãi 5% hiện nay.
Nguồn cơn
Trước sự hoang mang của dư luận, NHNN chiều tối 11/3 đã lên tiếng và viện dẫn Thông tư 11/2013 để khẳng định chuyện giải ngân của NHNN sẽ dừng lại khi đã giải ngân hết số tiền tái cấp vốn nhưng tối đa là 36 tháng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực là điều đã được công bố từ ngay từ đầu.[1]   

Tuy nhiên, cần lưu ý là thời hạn 36 tháng trên (đến 1/6/2016) là thời hạn tối đa NHNN giải ngân các khoản cho vay tái cấp vốn 30.000 tỷ đối với các ngân hàng thương mại. Nó không phải là thời hạn cho các ngân hàng thương mại dừng giải ngân với lãi suất ưu đãi cho các khoản vay trong gói 30.000. Hoàn toàn không có điều khoản nào trong Thông tư 11/2013 quy định rằng các ngân hàng thương mại tham gia gói 30.000 tỷ này phải áp dụng lãi suất thương mại cho phần dư nợ giải ngân từ sau 1/6/2016. Chỉ có Khoản 3 Điều 8 của thông tư này mới có quy định liên quan đến lãi suất thương mại, theo đó: “… Dư nợ còn lại của khách hàng tại ngân hàng sau ngày 1/6/2023 được chuyển sang hình thức cho vay bằng nguồn vốn của ngân hàng”. Ngoài ra, Điều 4 thông tư này đã quy định rõ lãi suất cho vay hỗ trợ không vượt quá 6%/năm và thời gian áp dụng lên tới tối đa 10 năm, nhưng không vượt quá thời điểm 1/6/2023.


Vậy, cứ chiểu theo những quy định trên, nếu trong các hợp đồng vay vốn hiện tại ký giữa ngân hàng thương mại và người vay mua nhà trong gói 30.000 tỷ này có điều khoản nào quy định rằng phần dư nợ giải ngân sau 1/6/2016 sẽ chịu lãi suất thương mại thì điều khoản này là không được dựa trên Thông tư 11/2013. Với người vay đã trót thỏa thuận chịu lãi suất thương mại này thì có phần lỗi của mình khi không đòi hỏi ngân hàng thương mại ký cho vay phải áp dụng thời hạn lãi suất ưu đãi dài hơn (tối đa đến 1/6/2023). Với ngân hàng thương mại, sẽ là có lỗi khi có ai đó đưa ra được bằng chứng rằng ngân hàng thương mại đã cố tình hiểu sai luật, khi thuyết phục người vay chấp nhận rằng lãi suất ưu đãi dưới hoặc bằng 6%/năm chỉ được áp dụng cho các khoản dư nợ giải ngân trước 1/6/2016 (với lý do, ví dụ, NHNN quy định như thế). Nếu có bằng chứng này, người vay tiền có thể khởi kiện ngân hàng thương mại vì đã cố tình đưa ra thông tin sai lệch gây thiệt hại cho họ.

Với các hợp đồng cho vay vốn ưu đãi từ gói 30.000 tỷ mà không có điều khoản nào quy định rằng phần dư nợ giải ngân sau 1/6/2016 sẽ phải chịu lãi suất thương mại thì dù NHNN sẽ dừng giải ngân các khoản cho vay tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại vẫn phải tiếp tục thực hiện giải ngân cho người vay với lãi suất ưu đãi (do NHNN công bố vào tháng 12 của năm trước) cho đến hết thời hạn của khoản vay (nhưng không được quá ngày 1/6/2023, trừ khi 2 bên có thỏa thuận cụ thể nào khác, ví dụ thời hạn khoản vay ưu đãi chỉ là 5 năm tính từ ngày ký hợp động vay vốn ưu đãi, do người vay chỉ muốn vay trong 5 năm mà thôi).

Cũng có các hợp đồng cho vay vốn ưu đãi của một số ngân hàng có quy định rõ lãi suất trước ngày 2/6/2023 là lãi suất thả nổi theo thông báo của NHNN về lãi suất cho vay hỗ trợ nhà ở theo Thông tư 11/2013, và sau ngày 2/6/2023 trở đi thì mới áp dụng lãi suất theo thông báo của ngân hàng đó (một hợp đồng dạng này đã được đăng trên Vietnamnet ngày 11/3/2016). Nay, nếu những ngân hàng này mà biện báo rằng vì NHNN dừng giải ngân cho vay tái cấp vốn cho ngân hàng đó nên họ phải dừng giải ngân lãi suất ưu đãi cho khách hàng mặc dù đã thỏa thuận áp dụng lãi suất ưu đãi đến tận 2/6/2023 như trong hợp đồng cho vay thì đây là một hành vi cần được coi là đơn phương phá vỡ hợp đồng. Như đã nói ở trên, Thông tư 11/2013 chỉ nói là NHNN dừng giải ngân tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại, chứ không nói là ngân hàng thương mại phải dừng giải ngân với lãi suất ưu đãi cho khách hàng kể từ ngày 2/6/2016. Kể cả trường hợp Thông tư 11/2013 có điều khoản nào đó nói rằng khi NHNN dừng giải ngân tái cấp vốn ưu đãi cho ngân hàng thương mại nên ngân hàng thương mại cũng dừng giải ngân vốn vay ưu đãi cho khách hàng, thì ngân hàng thương mại vẫn có lỗi, do khi soạn thảo và ký kết hợp đồng với khách hàng vẫn đưa vào điều khoản lãi suất ưu đãi kéo dài đến ngày 1/6/2023. “Bút sa gà chết”, ngân hàng thương mại phải thực hiện đúng như cam kết trong hợp đồng, chứ không thể lảng tránh nghĩa vụ, đẩy phần thiệt sang cho người vay được.

Về phía NHNN, họ cũng có những sơ hở, lỏng lẻo trong Thông tư 11/2013. Về số tiền cho vay theo lãi suất ưu đãi là khoảng 30.000 tỷ (chữ in đậm là nguyên văn trong Khoản 1 Điều 3), NHNN không phân bổ quota cho từng ngân hàng tham gia, mà chỉ tái cấp vốn sau khi các ngân hàng đã cho vay ra. Như vậy, sẽ xảy ra trường hợp tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng có thể vượt quá con số khoảng 30.000 tỷ, và do đó sẽ có ngân hàng nào đó bị từ chối được vay tái cấp vốn từ NHNN cho một (vài) khoản vay với mục đích này, gây thiệt hại cho họ khi đã trót cam kết cho khách hàng được hưởng lãi suất ưu đãi trong hợp đồng cho vay.

Quan trọng nhất, Thông tư 11/2013 không hề đề cập đến việc NHNN (giải ngân) cho vay tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại dựa trên những hợp đồng cho vay gồm nhiều đợt giải ngân theo tiến độ thanh toán của hợp đồng mua bán nhà, có thể kéo dài sau ngày 1/6/2016. Có lẽ chính vì sự thiếu vắng pháp lý với loại hợp đồng phổ biến này mà các ngân hàng thương mại tự diễn giải thành NHNN sẽ giải ngân cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại dựa trên tổng số vốn ngân hàng cam kết cho vay ghi trong hợp đồng cho vay (ví dụ, hợp đồng ký năm 2014 cho vay 500 triệu, giải ngân thành 3 đợt, đợt cuối là năm 2017) nên các ngân hàng này mới cam kết cho khách hàng vay với lãi suất ưu đãi đến tận 1/6/2023 vì nghĩ rằng NHNN sẽ giải ngân cho vay tái cấp vốn ngân hàng này ngay từ năm 2014 là 500 triệu. Dù đúng hay sai, nhưng thực tế là NHNN dường như đã và đang không đả động gì đến họ xử lý thế nào với các hợp đồng vay vốn ưu đãi có các đợt giải ngân kéo dài sang đến sau ngày 1/6/2016, thay vào đó lại đá quả bóng sang cho ngân hàng với khách hang.


[1] http://baophapluat.vn/chinh-sach/goi-30000-ty-dong-hoa-ra-nguoi-dan-bi-lua-265292.html

Thursday 17 March 2016

Hãy để các ngân hàng được toàn quyền quyết định cuộc "chơi"! (Bài đăng trên CafeF, 17/3/2016, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/hay-de-cac-ngan-hang-duoc-toan-quyen-quyet-dinh-cuoc-choi-20160313155820344.chn

Dự thảo sửa đổi Thông tư số 36 – Cần lắng nghe phản biện hơn


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 36 về các tỷ lệ, giới hạn an toàn trong hoạt động ngân hàng, trong đó có việc sửa tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn từ 60% xuống còn 40%, và hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay kinh doanh bất động sản, từ 150% lên 250%. Ngay lập tức, dự thảo này của NHNN đã vấp phải sự phản đối của không chỉ giới bất động sản mà còn ngay cả từ các ngân hàng thương mại vì cho rằng bất động sản sẽ bị ảnh hưởng mạnh bởi thông tư mới.

Trước sự phản đối này, NHNN đã gửi các văn bản trấn an, giải thích theo hướng để dư luận thấy rằng dự thảo sửa đổi Thông tư số 36 là điều hợp lý, cần thiết.

Mâu thuẫn

Nói về hoàn cảnh ra đời dự thảo sửa đổi Thông tư 36, NHNN cho biết: “Thị trường bất động sản đã có đà phục hồi tốt. Đã đến lúc cần thực thi chính sách tín dụng thận trọng và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản”. Bởi vậy, hai nội dung sửa đổi mấu chốt trong dự thảo là giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và nâng hệ số rủi ro cho vay bất động sản có thể được coi là một bước đi cụ thể hóa chính sách tín dụng thận trọng và quản lý chặt chẽ (theo hướng siết lại) thị trường bất động sản.

Mặt khác, NHNN đã đưa ra những tính toán giả định để chứng minh rằng dự thảo sửa đổi, bổ sung Thông tư số 36 không làm giảm vốn tín dụng cho thị trường bất động sản. Theo họ, còn tới 650 nghìn tỷ đồng hạn mức để cung cấp cho thị trường bất động sản kể cả khi điều chỉnh tỷ lệ rủi ro cho vay kinh doanh bất động sản từ 150% lên 250%, và tới 540 nghìn tỷ đồng hạn mức cho vay trung và dài hạn nữa, bao gồm cho vay lĩnh vực bất động sản, mới tới giới hạn 40% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn.

Rõ ràng ở đây đã có sự mâu thuẫn. Nếu quả thực đúng như NHNN chứng minh rằng dự thảo Thông tư 36 không làm giảm vốn vào bất động sản thì, về logic, có thể nói rằng dự thảo Thông tư 36 là thừa, sẽ không đạt được mục đích mong muốn. Vì sau khi dự thảo này được thông qua, bất động sản vẫn sẽ chẳng mấy hề hấn, rủi ro cho vay bất động sản vẫn sẽ cao như cũ, thậm chí còn cao hơn, do vẫn còn nhiều dư địa để cho các TCTD tiếp tục đổ vốn vào bất động sản nếu một khi các TCTD vẫn ưa thích lĩnh vực này (hơn các lĩnh vực khác). Bởi vậy, vấn đề đặt ra ở đây, và NHNN cần trả lời rõ là vậy thì rốt cuộc dự thảo Thông tư 36 để làm gì, nhằm mục đích gì?

NHNN cũng đã chỉ ra rằng: “Từ năm 2015, thị trường bất động sản đã bắt đầu phục hồi nhờ một loạt các giải pháp, chính sách hỗ trợ, bao gồm cả chính sách tín dụng như triển khai gói tín dụng 30 nghìn tỷ đồng, giảm tỷ lệ rủi ro các khoản cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản từ 250% xuống còn 150%, tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng tín dụng trung, dài hạn”. Như thế, chính NHNN cũng thừa nhận tác động mạnh mẽ của các giải pháp chính sách như thay đổi tỷ lệ rủi ro cho vay bất động sản và tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn lên luồng tín dụng của các TCTD đổ vào bất động sản và, do đó, sự hưng thịnh hay suy sụp của lĩnh vực này. Vậy mà trong các văn bản giái thích, trấn an hiện nay, NHNN dường như có ý xem nhẹ tác động của các giải pháp chính sách theo hướng siết chặt lại của chính mình lên lĩnh vực bất động sản.

Cần đưa ra và giám sát tuân thủ luật chơi chứ không phải chơi thay

NHNN lập luận rằng: “Nguồn vốn trung, dài hạn cần phải ưu tiên sử dụng cho các mục đích an toàn, hiệu quả kinh tế nhất và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Vốn cho vay của các tổ chức tín dụng là vốn huy động từ tiền gửi của nhân dân và phải được phân bổ, sử dụng một cách an toàn, hiệu quả nhất chứ không phải dành riêng hay dồn vốn cho bất động sản. Nói cách khác, trách nhiệm của ngành ngân hàng là phải bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và an toàn tiền gửi của nhân dân. Theo đó, ngân hàng không thể tự đặt mình vào trạng thái rủi ro do tập trung đầu tư vốn cho một hoặc một số ít lĩnh vực”.
Đúng là trách nhiệm của các TCTD là phải bảo đảm an toàn hoạt động và an toàn tiền gửi của nhân dân. Và đúng là các TCTD luôn có xu hướng lao theo lợi nhuận dẫn đến mất an toàn trong hoạt động và mất khả năng thanh toán tiền gửi của dân. Nhưng ở đây có trách nhiệm đầu tiên của NHNN. Muốn hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh thì NHNN với tư cách là nhà tổ chức và quản lý thị trường phải đưa ra các luật lệ và giám sát chặt chẽ sự tuân thủ các luật lệ này để đảm bảo cuộc chơi diễn ra an toàn, lành mạnh. Theo góc nhìn này, việc NHNN hạ tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng là một bước đi phù hợp với trách nhiệm và vai trò của NHNN.
Tuy nhiên, nếu đi xa hơn và lý luận rằng: “Vốn cho vay của các tổ chức tín dụng là vốn huy động từ tiền gửi của nhân dân và phải được phân bổ, sử dụng một cách an toàn, hiệu quả nhất chứ không phải dành riêng hay dồn vốn cho bất động sản” thì đây, về bản chất, là hình thức NHNN nhảy vào chơi thay, can thiệp thô bạo vào quyết định của các ngân hàng. Như đã nói, vai trò của NHNN là đưa ra và giám sát tuân thủ các luật lệ hoạt động an toàn, lành mạnh, còn lại thì hãy để cho các ngân hàng thương mại được toàn quyền quyết định chơi như thế nào. Cụ thể hơn, họ được toàn quyền tự quyết định phân bổ vốn vào đâu có hiệu quả nhất (theo góc nhìn của họ là đem lại lợi nhuận lớn nhất với chi phí thấp nhất, và góc nhìn này không nhất thiết là tương đồng với góc nhìn của NHNN), kể cả bất động sản, nếu họ thấy vậy, và miễn là trong hạn mức an toàn chung mà NHNN đặt ra cho toàn hệ thống.
Giả sử NHNN vẫn cứ khăng khăng rằng dồn vốn vào bất động sản là rất rủi ro và không hiệu quả, không phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội (lưu ý lại rằng góc nhìn về hiệu quả của NHNN không nhất thiết tương đồng với góc nhìn của các ngân hàng thương mại), và muốn hướng luồng vốn của các TCTD vào các lĩnh vực khác của nền kinh tế theo quan điểm của NHNN. Gạt sang một bên chuyện rằng đây chỉ là tư duy của nhà quản lý, chứ không phải là tư duy của thị trường, NHNN vẫn có thể đạt được mục đích này thông qua đưa ra và/hoặc siết chặt hơn những tiêu chuẩn hoạt động an toàn chung cho toàn ngành, thay vì đưa ra các chỉ tiêu an toàn duy nhất cho bất động sản. Làm được như vậy thì NHNN sẽ không phải vướng vào vai trò người chơi, còn các ngân hàng thì được tự do hơn trong cuộc chơi miễn là trong khuôn khổ các luật lệ cho cuộc chơi an toàn, lành mạnh đặt ra.
Cụ thể, nếu đúng như NHNN lập luận rằng cho vay bất động sản rất rủi ro, rủi ro cao hơn những lĩnh vực khác, thì tính rủi ro cao hơn này chắc chắn sẽ được phản ánh vào trong kết quả hoạt động của các ngân hàng, thể hiện ở tỷ lệ nợ xấu cao hơn, tỷ trọng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cao hơn, tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu thấp hơn v.v… Vậy thì để siết vốn đổ vào bất động sản một cách gián tiếp, NHNN chỉ cần điều chỉnh những chỉ tiêu này theo hướng thắt chặt hơn là được (trong đó có hạ tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn như đang dự thảo sửa đổi Thông tư 36).
Chuyện nào ra chuyện đó
NHNN lập luận: “Chúng ta đã có bài học đắt giá mới đây còn nguyên giá trị về tập trung cho vay động sản trong giai đoạn 2006-2010 để rồi tự đẩy ngân hàng vào trạng thái rủi ro quá mức cùng với thị trường và nhà đầu tư, trong đó không ít ngân hàng khó khăn, thua lỗ, thậm chí lâm vào tình trạng phá sản vì cho vay bất động sản”.
Như nói ở trên, NHNN có trách nhiệm đề ra và giám sát tuân thủ luật lệ cuộc chơi. Nên khi xảy ra sự hỗn loạn trong cuộc chơi thì trách nhiệm đầu tiên thuộc về NHNN và các cơ quan quản lý nhà nước khác. “Bài học đắt giá” trong giai đoạn 2006-2010 không chỉ hoàn toàn do lỗi của các ngân hàng thương mại. Hãy nhớ lại thời gian đó có một loạt sai lầm về chính sách, từ chính sách kích cầu, hỗ trợ lãi suất, đến chính sách tăng trưởng nóng dựa vào mở rộng ồ ạt cung tiền và tăng chi tiêu Chính phủ, kèm với những yếu kém trong điều hành, thanh tra, giám sát hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và ngoại hối dẫn đến lạm phát tăng vọt, tỷ giá biến động mạnh, nợ xấu vọt lên trên chục phần trăm, ngành ngành, nhà nhà đua làm ngân hàng, tình trạng sở hữu chéo và gian lận tràn lan trong ngành như là hậu quả của việc thúc các ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu v.v… Bởi vậy, cần thẳng thắn nhìn nhận lý do chủ quan thay vì đổ cho một lý do khách quan dễ dãi nào đó.
Tóm lại, dự thảo sửa đổi Thông tư 36 như hiện tại nếu được thông qua chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến ngành bất động sản. Tuy vậy, công bằng mà nói thì dự thảo sửa đổi hạ tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (áp dụng chung cho tất cả các ngành, không chỉ riêng bất động sản) là điều hợp lý theo hướng giảm rủi ro trong toàn hệ thống ngân hàng. Còn dự thảo sửa đổi nâng tỷ lệ rủi ro cho vay bất động sản nhắm trực tiếp vào bất động sản là không hợp lý. Nếu NHNN muốn, họ vẫn có thể đạt được mục đích “nắn” dòng tín dụng vào bất động sản một cách gián tiếp thông qua thắt chặt hơn, giám sắt chặt chẽ hơn việc tuân thủ các chỉ tiêu tín dụng an toàn, lành mạnh, là điều cũng đang rất cần thiết hiện nay cho NHNN và toàn ngành ngân hàng.  

Friday 11 March 2016

Hợp lý hay không là tùy vào góc nhìn (Trả lời phỏng vấn báo DBND, 12/3/2016, bản gốc)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=368784

- Việc sửa đổi Thông tư 36 theo hướng giảm trần sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn từ 60% xuống còn 40%, theo ông có hợp lý không?
 
Hợp lý hay không là tùy vào góc nhìn. Với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thì đương nhiên là hợp lý vì giảm trần như vậy có nghĩa là giảm rủi ro căng thẳng thanh khoản khi các ngân hàng bị mất cân đối kỳ hạn giữa huy động (ngắn hạn) và cho vay (dài hạn). Khi rủi ro trong hệ thống giảm đi thì đương nhiên công việc của NHNN sẽ trở nên “nhàn” hơn, đỡ mang tai tiếng hơn khi có sự kiện xấu nào đó xảy ra.

Với các ngân hàng thương mại thì điều này là không hợp lý, vì họ sẽ mất bớt đi cơ hội kinh doanh vốn. Nhiều ngân hàng thương mại có thể lập luận (một cách rất có lý) rằng họ tự biết và hoàn toàn có khả năng kiểm soát tốt được cân đối nguồn vốn để không bị rơi vào tình trạng “ăn đong”, giật vốn chỗ nọ vá vào chỗ kia.

Với các đối tượng vay vốn của ngân hàng thì họ cũng sẽ thấy là không hợp lý, vì khi ngân hàng thương mại bị siết cho vay, đương nhiên người chịu ảnh hưởng đầu tiên là những đối tượng vay vốn này.
 
- Đặc biệt, Thông tư này cũng điều chỉnh trọng số rủi ro cho vay bất động sản từ 150% lên 250% có ảnh gì đến tín dụng trung dài hạn không, nhất là với tín dụng bất động sản, thưa ông?

NHNN đã lên tiếng biện luận cho chủ trương này của mình. Tôi thấy ít nhất có một điểm mà NHNN cần phải làm rõ hơn. Đó là, NHNN cho rằng dự thảo Thông tư 36 không làm giảm vốn vào bất động sản (vì còn tới 650 nghìn tỷ đồng hạn mức để cung cấp cho thị trường bất động sản kể cả khi điều chỉnh hệ số rủi ro cho vay kinh doanh bất động sản từ 150% lên 250%). Nếu đúng vậy thì, về logic, có thể nói rằng dự thảo Thông tư 36 là thừa, sẽ không phát huy được tác dụng như dự tính, vì bất động sản sẽ chẳng mấy hề hấn, rủi ro cho vay bất động sản vẫn cao vì vẫn còn nhiều dư địa để tiếp tục đổ vốn vào bất động sản. Bởi vậy, vấn đề đặt ra ở đây, và NHNN cần trả lời rõ là vậy thì rốt cuộc dự thảo Thông tư 36 để làm gì, nhằm mục đích gì?

- Hiện có 2 luồng dư luận về sửa Thông tư 36: Các doanh nghiệp bất động sản không đồng tình; Các ngân hàng ủng hộ. Vậy trong trường hợp NHNN vẫn cương quyết sửa Thông tư 36 theo hướng đã định thì thị trường bất động sản và cả nền kinh tế sẽ bị tác động như thế nào, thưa ông?

Tôi nghĩ là hiếm có ngân hàng thương mại nào lại ủng hộ dự thảo này một cách tự giác, nhiệt tình, không phải là miễn cưỡng bày tỏ quan điểm. Như nói ở trên, dự thảo này đương nhiên là trói buộc thêm các ngân hàng thương mại chứ không tạo thêm cơ hội làm ăn cho họ, vậy tại sao lại nghĩ rằng (phần lớn) các ngân hàng thương mại ủng hộ dự thảo này?

Căn cứ vào tình hình hiện tại thì tôi nghĩ là nhiều khả năng NHNN sẽ cương quyết sửa đổi thông tư này như đã định. Nếu vậy, tác động đầu tiên sẽ có thể cảm nhận được là sự chững lại của nền kinh tế vì cho dù tổng lượng tín dụng cho nền kinh tế là không đổi thì sẽ có nhiều dự án cần vốn trung và dài hạn không tiếp cận được vốn tín dụng do các ngân hàng bị hạn chế ở cái trần vốn ngắn hạn cho vay dài hạn 40%. Trong số này tất nhiên là có các dự án bất động sản. Tuy nhiên, đổi lại, thì rủi ro trong hệ thống ngân hàng sẽ giảm bớt.
Tác động thứ hai cũng chính là tác động bất lợi lên bất động sản một cách trực tiếp. Đó là vì khi chịu hệ số rủi ro tín dụng cao hơn cho bất động sản, các ngân hàng sẽ phải chủ động tiết giảm cho vay bất động sản để giảm hệ số rủi ro chung của họ. Như vậy, có thể nói bất động sản sẽ chịu “2 quả đấm” cùng lúc – trần vốn ngắn hạn cho vay dài hạn và hệ số rủi ro tín dụng cao hơn.

Ngược lại, cũng có thể coi là một tác động bất lợi khác lên nền kinh tế, các ngân hàng do phải tiết giảm cho vay bất động sản nên sẽ phải tìm nơi để “trút” vốn của mình, có thể là những lĩnh vực và những doanh nghiệp ít rủi ro nhất. Nhưng những lĩnh vực, doanh nghiệp này không nhất thiết là những lĩnh vực và doanh nghiệp thuộc diện ưu tiên cần phải thúc đẩy, không nhất thiết phải là những lĩnh vực và doanh nghiệp có hiệu quả nhất, tạo ra và là động lực tăng trưởng lớn nhất.

Đã có cách giải bài toán thuế cho Dung Quất (Bài đăng trên TBKTSG, 11/3/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/143312/Da-co-cach-giai-bai-toan-thue-cho-Dung-Quat.html

Lập luận mà tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) thường đưa ra để xin giảm mức thuế điều tiết đối với Nhà máy Lọc dầu Dung Quất có thể tóm tắt như bên dưới. Vấn đề là lập luận này đã lập lờ một chỗ.

Từ đầu năm 2016 thuế nhập khẩu xăng từ các nước trong khu vực ASEAN giảm từ 20% về 10% và thuế nhập khẩu diesel giảm về 0% theo lộ trình đã định sẵn. Ngoài ra, thuế nhập khẩu với sản phẩm xăng từ Hàn Quốc cũng được đưa về mức 10% theo biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc.

Trong khi đó, sản phẩm xăng dầu sản xuất tại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất bán ra thị trường nội địa phải nộp điều tiết dựa trên thuế suất thuế nhập khẩu chung và mức thuế họ đang chịu là 20%, dẫn đến sản phẩm của Dung Quất khó cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu.

Chỗ lập lờ trong lập luận nói trên là cho rằng thuế nhập khẩu xăng dầu từ các nước trong khu vực ASEAN giảm từ 20% về 10%. Thực tế là, đối với mặt hàng xăng thì chỉ có xăng máy bay là được giảm thuế từ 20% về 10% chứ không phải tất cả các mặt hàng xăng nhập khẩu từ ASEAN đều được hưởng thuế nhập khẩu 10%.

Trong khi đó, Dung Quất cũng đã và đang chịu thuế điều tiết là 20% cho xăng động cơ và 10% cho xăng máy bay, bằng với mức thuế ưu đãi ASEAN (chứ không phải đồng nhất 20% như PVN nói). Riêng về thuế nhập khẩu xăng dầu từ Hàn Quốc, đúng là hiện mức đồng nhất 10% đang được áp dụng cho các sản phẩm xăng, không phân biệt xăng máy bay hay xăng động cơ, và điều này đang là bất lợi cho Dung Quất khi họ vẫn phải chịu mức thuế điều tiết 20% cho xăng động cơ.

Bởi thế, trong các kiến nghị xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng gần đây hơn, PVN đã thay đổi nội dung đòi hỏi, đã bỏ phần so sánh mức thuế điều tiết về mặt hàng xăng cho Dung Quất với mức thuế nhập khẩu từ ASEAN như nói ở trên, chủ yếu chỉ còn nhấn mạnh vào so sánh chênh lệch giữa thuế điều tiết áp dụng cho các sản phẩm xăng dầu của Dung Quất với thuế nhập khẩu ưu đãi từ Hàn Quốc (và đôi khi còn so sánh với cả nhập khẩu từ Nhật Bản).

So sánh chênh lệch thuế như thế đã tỏ ra hợp lý hơn. Xét về, ví dụ, xăng động cơ, trong khi Dung Quất bị áp thuế điều tiết 20% thì sản phẩm này nhập khẩu từ Hàn Quốc lại được hưởng thuế 10%.

Về dầu diesel, trong khi Dung Quất chịu thuế 10% thì dầu diesel nhập khẩu từ ASEAN hoặc Hàn Quốc chỉ chịu thuế 0%. Nói cách khác, rõ ràng là Dung Quất sẽ gặp khó trong việc tiêu thụ những sản phẩm có mức thuế chênh lệch lớn như thế này so với sản phẩm tương tự nhập khẩu.

Nhưng cần nhấn mạnh rằng chênh lệch thuế không đủ để trở thành lý do Chính phủ phải hạ thuế điều tiết cho Dung Quất xuống bằng thuế ưu đãi đặc biệt cho Hàn Quốc (hay Nhật Bản). Nguyên nhân là bởi nhập khẩu xăng dầu từ Hàn Quốc, theo người viết tính toán dựa trên số liệu của UN Tradecom, chỉ chiếm 8,6% tổng lượng xăng các loại nhập khẩu về Việt Nam năm 2014 (chưa có số liệu năm 2015).

Với tỷ trọng nhỏ này, sẽ là không hợp lý nếu hạ thuế điều tiết cho các loại xăng của Dung Quất đồng loạt xuống 10%, ngang bằng với thuế ưu đãi cho nhập khẩu từ Hàn Quốc, trong khi đa phần nhập khẩu vẫn chịu thuế từ 10-20% tùy loại (xăng động cơ hay xăng máy bay), kể cả từ ASEAN, nơi cung cấp đến 70,7% lượng xăng nhập khẩu về Việt Nam năm 2014.
Tuy nhiên, cũng đã có một số người lập luận rằng tuy nhập khẩu xăng từ Hàn Quốc trong các năm trước không lớn nhưng rất có thể sẽ tăng mạnh từ năm nay, khi mức thuế 10% được áp dụng, thay vì 20% (với xăng động cơ) như trước. Do đó, trong mắt họ, vẫn là hợp lý khi hạ thuế điều tiết cho Dung Quất về 10%.

Đúng là có thể rằng nhập khẩu xăng từ Hàn Quốc sẽ tăng mạnh, nhưng về nguyên tắc không thể chiếm 100% tổng lượng xăng nhập khẩu vào Việt Nam. Điều này chí ít vì ngoài chuyện thuế nhập khẩu cao hay thấp, lượng nhập khẩu có tăng lên hay không còn phụ thuộc phần lớn vào giá gốc nhập khẩu. Chỉ khi nào xăng sản xuất từ Hàn Quốc có giá thấp nhất thế giới, với sản lượng lớn nhất thế giới (cần bao nhiêu cũng có) thì lúc đó mới xảy ra tình trạng nhập khẩu từ Hàn Quốc thay thế toàn bộ nhập khẩu từ các nước khác. Mà điều này thì không đúng vì năm 2014, Hàn Quốc xuất khẩu 12,2 triệu tấn xăng (sang Việt Nam chỉ là 212.400 tấn), tuy là lớn nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ trong tổng cung thế giới.
Vì thế, việc hạ thuế điều tiết cho Dung Quất về 10% vẫn là không thỏa đáng khi vẫn sẽ còn một phần được nhập khẩu từ các nước và khu vực khác đang chịu thuế cao hơn.

Dẫu vậy, trên nguyên tắc, rõ ràng là nhập khẩu từ Hàn Quốc với thuế thấp hơn thì dù ít hay nhiều cũng đã và đang gây thiệt hại cho Dung Quất, và vì thế cũng cần phải xem xét điều chỉnh thuế cho Dung Quất ở mức hợp lý, dù không thể xuống mức 10% như nói ở trên. Theo hướng này, cách làm công bằng nhất là hoàn thuế cho Dung Quất dựa theo tỷ trọng nhập khẩu xăng dầu thực tế vào Việt Nam từ Hàn Quốc và những nước được hưởng ưu đãi thuế đặc biệt khác (ví dụ Nhật Bản) thấp hơn mức thuế điều tiết lên Dung Quất.

Cụ thể, ví dụ, trong năm 2016, tỷ trọng nhập khẩu xăng động cơ theo biểu thuế ưu đãi từ Hàn Quốc (với mức thuế 10%) tăng vọt lên, chiếm 40% tổng lượng xăng động cơ nhập khẩu vào Việt Nam. Giả sử 60% nhập khẩu còn lại là từ ASEAN với mức thuế 20%, bằng với mức thuế điều tiết áp dụng cho Dung Quất. Vậy mức thuế điều tiết cho Dung Quất sẽ được tính theo công thức sau: (40x10 + 60x20)/100 = 16(%). Nói cách khác, sang năm 2017 Dung Quất sẽ được hoàn 4 điểm phần trăm thuế tính trên sản lượng xăng động cơ mà nó tiêu thụ trong năm 2016. Điều này sẽ giúp Dung Quất giảm được giá bán năm 2017 và các năm sau. Hoặc cũng có thể áp dụng mức thuế 16% này cho Dung Quất từ năm 2017 thay vì 20%, và mức này sẽ lại được điều chỉnh trong những năm tiếp theo dựa vào số liệu thực tế của năm trước đó. Nếu thấy chu kỳ hoàn thuế một năm là quá dài, vẫn gây thiệt hại cho Dung Quất thì có thể rút ngắn thành quí hoặc nửa năm một lần.

Áp dụng cách tính toán tương tự như vậy cho các mặt hàng xăng dầu khác và cho các nước, khu vực nhập khẩu khác sẽ ra được mức hoàn thuế hay mức thuế điều tiết phù hợp và công bằng cho Dung Quất. Và tuy tính toán như vậy có thể sẽ phức tạp vì phải cập nhật thường xuyên số liệu một cách chính xác nhưng nó tỏ ra là cách tính công bằng nếu Chính phủ vẫn chủ trương giữ thuế điều tiết cho Dung Quất tương ứng với mức thuế nhập khẩu nói chung (không phụ thuộc duy nhất vào nước hay vùng nhập khẩu nào).

Friday 4 March 2016

Cho ai vay là việc của ngân hàng thương mại (Bài đăng trên TBKTSG, 4/3/2016)

http://www.thesaigontimes.vn/143005/Cho-ai-vay-la-viec-cua-ngan-hang-thuong-mai.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo sửa đổi thông tư 36/2014/TT-NHNN trong đó dự kiến giảm mạnh trần sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn từ 60% hiện nay xuống còn 40% và nâng hệ số rủi ro của các khoản cho vay kinh doanh bất động sản từ 150% lên 250%.
Do phần lớn các khoản cho vay lĩnh vực bất động sản đều là các khoản vay trung và dài hạn nên động thái này cũng cho thấy NHNN muốn hạn chế sự tăng trưởng nóng của tín dụng chảy vào kênh bất động sản. Kinh nghiệm nhiều năm trước đây dường như cho thấy tín dụng ngân hàng chảy quá nhiều vào bất động sản là nguyên nhân trực tiếp gây ra những đợt nóng sốt và xì hơi của bất động sản ở Việt Nam, gây ra những hệ lụy lớn cho ổn định kinh tế vĩ mô và sức khỏe của hệ thống tài chính và ngân hàng Việt Nam. Như vậy, có thể hiểu dự thảo sửa đổi Thông tư 36 là một ý tốt của NHNN nhìn từ trách nhiệm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn tài chính quốc gia. Nhưng cũng không thể bỏ qua một mục tiêu khác mà NHNN rất có thể ngắm đến trong việc sửa đổi chính sách lần này là họ muốn vốn tín dụng ngân hàng chảy đến những nơi cần chảy – những lĩnh vực được ưu tiên, ví dụ, nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ… Có lẽ NHNN quan ngại rằng nếu không sửa đổi theo hướng thắt chặt hơn thì các tín dụng ngân hàng sẽ “bỏ quên” các lĩnh vực ưu tiên này mà chỉ tập trung vào bất động sản mang lại lợi nhuận lớn hơn.
Tuy nhiên, nhìn từ phía ngành bất động sản, đa phần cho rằng nếu sửa đổi Thông tư 36/2014/TT-NHNN theo hướng như đã nói trên, thì có thể sẽ có tác động tiêu cực đến thị trường BĐS mới vừa phục hồi hơn 2 năm qua từ đáy sâu khủng hoảng. Đối tượng bị thiệt hại không chỉ là các nhà đầu tư kinh doanh thứ cấp, các doanh nghiệp phát triển dự án BĐS, và người tiêu dùng là những người thu nhập thấp đô thị, mà còn cả các ngành, nghề có liên quan đến thị trường BĐS...
Vậy có giải pháp nào tốt hơn để dung hòa lợi ích của các bên liên quan, NHNN với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước, các ngân hàng thương mại với tư cách là người cho vay, và các doanh nghiệp bất động sản, nhà đầu tư bất động sản và người mua bất động sản với tư cách là người đi vay? Câu trả lời là hãy để thị trường lên tiếng, quyết định nhiều hơn.
NHNN thay vì trực tiếp can thiệp vào thị trường tín dụng thông qua định hướng hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại vào những lĩnh vực mà NHNN xác định là cần nhận được nhiều vốn hơn thì chỉ nên đặt ra những tiêu chuẩn chung, những mục tiêu áp dụng chung cho cả nền kinh tế, chứ không cho từng ngành, từng lĩnh vực như hiện tại.
Xét về nội dung dự thảo sửa đổi Thông tư 36, việc hạ trần sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn tỏ ra là điều cần thiết để giảm rủi ro trong toàn hệ thống, và nội dung sửa đổi này không chỉ tác động riêng đến ngành và các chủ thể trong bất động sản mà còn nhiều ngành, chủ thể khác trong nền kinh tế. Do đó, xét theo nguyên tắc đặt ra những tiêu chuẩn chung nêu trên thì điều sửa đổi này là hợp lý, tuy vẫn cần phải có những phân tích thấu đáo, ví dụ, tại sao lại là 40% mà không phải là 50%?
Về nội dung sửa đổi thứ hai trong dự thảo sửa đổi Thông tư 36, nâng hệ số rủi ro của các khoản cho vay kinh doanh bất động sản từ 150% lên 250%, điều này không chỉ là bất hợp lý nếu xét từ nguyên tắc trên khi nó trực tiếp nhắm vào duy nhất ngành bất động sản. Nếu biện hộ là để giảm rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi tập trung quá nhiều vốn vào ngành bất động sản, vì ngành này (đang) có nhiều rủi ro, thì điều này là thiếu căn cứ. Vì trong nền kinh tế thị trường, rõ ràng chẳng có ngành nào là ít hay nhiều rủi ro hơn phần còn lại của nền kinh tế. Ngành nào cũng có lúc thịnh, lúc suy, lúc ổn định, lành mạnh… đứng trên giác độ đầu tư. Và trên giác độ này thì lĩnh vực bất động sản rõ ràng chưa phải là lúc cần lo lắng vì mọi người đều thấy nó đang ở thời thịnh, mới bắt đầu thịnh trở lại, và chỉ có các ngân hàng thương mại mới hiểu rõ họ cần cho ai vay, bao nhiêu và bao lâu.
Nhưng nếu giả sử NHNN vẫn cứ lo ngại mọi việc sẽ thoát khỏi tầm kiểm soát của họ khi, trong mắt họ, thị trường bất động sản đã bắt đầu giai đoạn bong bóng, và, do đó, cần phải cho xì hơi bớt từ bây giờ?
Kể cả điều này là có thật thì NHNN cũng không cần phải bận tâm một cách “vi mô” như vậy. Với tư cách và vị thế của cơ quan điều tiết vĩ mô, NHNN chỉ cần siết chặt hơn tăng trưởng tín dụng cho toàn nền kinh tế, tự khắc tín dụng ngân hàng cho ngành bất động sản cũng phải giảm bớt như ý đồ.
Cũng có thể sẽ có lo lắng rằng khi tín dụng chung bị thắt chặt hơn thì vẫn còn rủi ro là các ngân hàng thương mại vẫn cứ nhắm mắt, say sưa đổ tín dụng vào bất động sản mà sao lãng tín dụng vào các ngành khác, dẫn đến tín dụng cho những ngành này càng ít hơn nữa.
Lo lắng này cũng là điều có thể xảy ra. Nhưng để ngăn chặn tình trạng này thì cũng không có gì là khó với quyền lực của NHNN. Với logic có thể có của NHNN rằng nếu vốn tín dụng đổ vào bất động sản nhiều thì sẽ làm chất lượng tài sản của nhiều ngân hàng sẽ xấu đi, vậy NHNN chỉ cần thắt chặt các tiêu chuẩn chung về chất lượng hoạt động của ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu, trần sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn (như đang dự thảo) v.v… thì tự khắc các ngân hàng thương mại phải cẩn trọng hơn trong quyết định đổ bao nhiêu vốn vào bất động sản là đủ mà không vi phạm các tiêu chuẩn hoạt động an toàn mà NHNN đặt ra để rồi bị phạt nặng.
Quan trọng không kém, như nhiều báo cáo thanh tra, giám sát, đánh giá của trong nước lẫn quốc tế, ví dụ như của Ngân hàng Thế giới (WB) mới đây đã chỉ ra, tín dụng ngân hàng hiện nay đang phân bổ một cách bất hợp lý cho khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoặc các doanh nghiệp tư nhân có quan hệ thân hữu, lấn át tín dụng dành cho những khu vực khác, trong đó có các khu vực được ưu tiên. Hơn nữa, tình trang sở hữu chéo vẫn còn nghiêm trọng và một vài cá nhân hay nhóm lợi ích vẫn có thể điều khiển hoạt động cho vay của ngân hàng theo hướng có lợi cho họ như cho doanh nghiệp sân sau, cho những mục đích cá nhân, vụ lợi v.v… càng làm giảm nguồn tín dụng lẽ ra được dành cho các doanh nghiệp và ngành có tiềm năng và lành mạnh.
Bởi thế, nếu NHNN mạnh tay dẹp bỏ được những tồn tại, những hoạt động mờ ám này thì tự khắc sẽ mở lối hơn nữa cho tín dụng chảy vào các khu vực có tiềm năng, cần được khuyến khích, cho dù tín dụng chung cho cả nền kinh tế có bị NHNN thắt chặt hơn. Ngược lại, nếu không xử lý tốt được những tồn tại này thì NHNN sẽ phải vật lộn với mục tiêu vừa giữ cho tín dụng tăng trưởng không quá nóng, vừa phải đảm bảo tín dụng vẫn chảy đầy đủ vào các lĩnh vực cần thúc đẩy.
Cuối cùng, cũng không nên quên rằng NHNN không phải là cơ quan quản lý nhà nước (duy nhất) có nhiệm vụ khuyến khích ngành nào phát triển, ngành nào cần “hãm phanh”. Việc này phải là trách nhiệm của, sẽ được làm tốt hơn bởi các cơ quan khác của Chính phủ, ví dụ như Bộ Tài chính thông qua chính sách thuế điều tiết mức độ của các hoạt động kinh tế, hay thông qua Bộ Xây dựng với các quy định chặt chẽ về môi trường, quy hoạch xây dựng (để giảm bớt nguy cơ tăng trưởng bong bóng bất động sản), hoặc các loại quỹ của Chính phủ như Quỹ doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay kể cả Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Phát triển Việt Nam… là những ngân hàng có vốn của ngân sách (không phải của NHNN).
Từ nhữn phân tích trên, có thể thấy NHNN nên quay trở về đúng với vai trò và trách nhiệm cốt lõi của họ là điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá đúng nghĩa ở tầm vĩ mô để đảm bảo lạm phát thấp, tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).