Wednesday 18 January 2017

Giải pháp hiện thực hóa thanh toán không dùng tiền mặt (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, 18/1/2017, bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/giai-phap-hien-thuc-hoa-thanh-toan-khong-dung-tien-mat/1102379/

Mới đây Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020. Đề án này có những mục tiêu cụ thể như đến cuối năm 2020, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán ở mức thấp hơn 10%; đến năm 2020, toàn thị trường có trên 300.000 thiết bị chấp nhận thẻ POS được lắp đặt, 100% các siêu thị, trung tâm mua sắm và cơ sở phân phối hiện đại có thiết bị chấp nhận thẻ, có thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt; nâng tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản tại ngân hàng lên mức ít nhất 70% vào cuối năm 2020 v.v…

Ví dụ về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt ở Ấn Độ
Một trong những ví dụ điển hình về sự chuyển biến nhanh chóng sang một xã hội không dùng tiền mặt là Ấn Độ. Nước này vào ngày 8/11/2016 đã đột ngột ban bố lệnh thu hồi các đồng tiền có mệnh giá 500 và 1.000 rupee, là 2 mệnh giá phổ biến nhất ở Ấn Độ, và đổi lấy các đồng tiền mới có mệnh giá 500 và 2.000 rupee có tính an toàn cao hơn.

Việc thu hồi và đổi tiền mới nói trên ngoài mục đích chính là chống tham nhũng và sự phát triển của thị trường ngầm, nó còn châm ngòi cho một diễn biến khá bất ngờ khác là buộc hàng trăm triệu người tiêu dùng nước này thành khách hàng bất đắc dĩ của hệ thống thanh toán điện tử do không còn đủ tiền mặt để tiến hành các giao dịch thanh toán thông thường như trước đây nữa. Cần biết rằng trước thời điểm 9/11/2016, giao dịch bằng tiền mặt chiếm 95% tổng số các giao dịch thanh toán ở Ấn Độ, ngay cả dịch vụ taxi Uber cũng chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt; có tới 90% cửa hàng bán lẻ không có máy đọc thẻ và các phương tiện chấp nhận thanh toán điện tử khác; có đến hơn nửa dân số nước này không có tài khoản ngân hàng…

Dù có nhiều nghi ngại về thời điểm Ấn Độ quyết định thực hiện được điện tử hóa thanh toán trên toàn quốc trong bối cảnh tiền mặt chiếm ưu thế tuyệt đối trong các giao dịch như trên, nhưng thực tế việc chuyển sang một xã hội không dùng tiền mặt đang diễn ra nhanh chóng ở đây sau lệnh thu hồi và đổi tiền tháng 11/2016. Tài khoản ngân hàng mới đang được mở với tốc độ tăng vọt so với trước, các dịch vụ thanh toán điện tử được đẩy mạnh, hình thức giao hàng và trả tiền trong thương mại trực tuyến đã hầu như chấm dứt và những ngành nghề kinh doanh dựa trên thanh toán điện tử như mua tạp hóa online đã bắt đầu lan rộng. Báo chí đưa tin thậm chí ngay cả người bán rau trên vỉa hè cũng lắp đặt các thiết bị đọc mã vạch và thanh toán trực tuyến. Các cửa hàng bán lẻ khác thì cũng đã chấp nhận ví điện tử v.v…
Hiện thực hóa Đề án không dùng tiền mặt ở Việt Nam

Có nhiều điểm tương đồng về một xã hội bị chi phối bởi tiền mặt giữa Việt Nam và Ấn Độ, như trình độ phát triển ở mức thấp với đa phần dân chúng sống ở nông thôn, tỷ trọng tiền mặt trong thanh toán ở mức cao, số dân có tài khoản ngân hàng ở mức thấp, cơ sở vật chất phục vụ thanh toán điện tử, đặc biệt là ở nông thôn và vùng sâu, vùng xa cực kỳ thiếu thốn…
Mặc dù Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đến năm 2020 ở Việt Nam không đưa ra những số liệu tương ứng hiện có và trong quá khứ, cho phép ta so sánh giữa hiện thực và mục tiêu để nhận biết sơ lược rằng các mục tiêu của Đề án có quá tham vọng và có thể thực hiện được vào năm 2020 hay không, nhưng như trường hợp của Ấn Độ cho thấy với sự quyết tâm cao và những biện pháp có phần cực đoan buộc các chủ thể liên đới tự giác và nghiêm túc thực hiện các bước đi cần thiết chuyển sang một xã hội không dùng tiền mặt thì Đề án hoàn toàn có khả năng sẽ được hiện thực hóa.

Trong những trường hợp như Việt Nam hay Ấn Độ, việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt phải đối mặt với một câu hỏi mang kiểu “con gà hay quả trứng có trước?”. Cụ thể, để thanh toán điện tử được phổ cập, trước tiên cần có nhiều người sử dụng rộng khắp trên cả nước. Nhưng để có nhiều người sử dụng thì phải thiết lập được một cơ sở hạ tầng kỹ thuật rộng khắp, hỗ trợ thanh toán điện tử. Đồng thời, phí sử dụng thanh toán điện tử cho cả người mua lẫn người bán phải ở mức thấp, khuyến khích mọi người chuyển sang sử dụng thanh toán điện tử vì sự tiện lợi, an toàn của nó. Nhưng phát triển cơ sở hạ tầng rộng khắp và mức phí thấp chỉ có thể thực hiện được khi hệ thống ngân hàng có đủ động lực và có điều kiện để làm những việc này, mà cụ thể hơn khi họ có thêm nhiều tài khoản thanh toán mới được mở ra để có thêm một nguồn tiền gửi thanh toán lớn hầu như không tốn phí và một cơ sở khách hàng lớn tạo điều kiện cho ngân hàng hạ thấp các mức phí dịch vụ liên quan đến thanh toán nhưng vẫn làm tăng tổng thu nhập từ dịch vụ thanh toán cho các ngân hàng.     
Để giải quyết tình trạng “con gà hay quả trứng” nói trên, những động thái chính sách mang tính cưỡng bức gần đây của Chính phủ như bắt buộc các giao dịch mua bán bất động sản và xe máy, ô tô phải thực hiện không dùng tiền mặt là những tiền đề và động thái đúng đắn và cần nhanh chóng nhân rộng mang tính cưỡng bức ra các lĩnh vực và ngành nghề khác. Một trong những lĩnh vực kế tiếp là mua bán trực tuyến nhưng không được phép thực hiện thông qua hình thức giao hàng-trả tiền mặt. Tương tự như vậy là các dịch vụ chia sẻ trực tuyến như Uber, Grap Taxi và Easy Taxi v.v... Những động thái chính sách này của Chính phủ, ở một góc độ nào đó cũng có ý nghĩa tương tự như hành động đổi tiền mang tính cưỡng bức, cực đoan hơn của Ấn Độ, sẽ tạo điều kiện, khuyến khích và bắt buộc thêm nhiều người chuyển sang mở tài khoản tại ngân hàng và chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt.

Về phía các đơn vị cung cấp hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ ở nông thôn và vùng sâu vùng xa, việc trang bị các máy đọc thẻ và thiết bị thanh toán đầu cuối, cũng như nối mạng để thực hiện thanh toán điện tử không phải là điều dễ dàng và ít tốn kém, nên sự hỗ trợ về chính sách, kỹ thuật và tài chính của Chính phủ cũng là điều cần thiết.
Chính phủ cũng cần thiết phải tăng cường tuyên truyền sâu rộng cho người dân và doanh nghiệp về lợi ích sử dụng thanh toán điện tử, ví dụ bằng những bài toán cụ thể cho thấy tính an toàn và hiệu quả hoàn toàn có thể bù đắp được những tốn phí trong sử dụng thanh toán điện tử để khuyến khích mọi người tích cực chuyển sang các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đồng thời, Chính phủ cần thúc đẩy phát triển hạ tầng kỹ thuật để phủ sóng nối mạng internet toàn quốc, hỗ trợ nhân rộng thanh toán không dùng tiền mặt trên cả nước.

Song song đó, ở phía các ngân hàng thương mại, Chính phủ cũng cần có những động thái chính sách mang tính cưỡng bức và khuyến khích để họ tiến hành mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng và hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt (ví dụ như đặt điều kiện về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt cho việc mở và duy trì các chi nhánh và điểm giao dịch), cũng như hạ thấp các loại phí dịch vụ (ví dụ, quy định mức trần về phí giao dịch, thanh toán điện tử). Do trước mắt, việc trang bị và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất tốn kém với các ngân hàng nên các chính sách hỗ trợ cần thiết của Chính phủ như miễn giảm thuế và các nghĩa vụ giao nộp, hay cho vay hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).