Sắp tới, Tổng công ty kinh
doanh vốn nhà nước (SCIC) sẽ thoái vốn nhà nước nắm giữ tại một số doanh nghiệp
lớn qua hình thức chào bán thỏa thuận trên sàn chứng khoán. Mở đầu cho đợt
thoái vốn này là Vinamilk (VNM) vào ngày 12/12, với giá khởi điểm là 144.000 đồng/cổ
phần. Tuy nhiên, do giá khởi điểm này là khá cao so với thị giá VNM trong thời
gian gần đây, nên kể từ thời điểm SCIC tổ chức giới thiệu cơ hội đầu tư vào VNM
trên Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh cuối tháng trước, đã có nhiều phiên
trong đó cổ phiếu VNM bị
bán ròng, chủ yếu bởi khối ngoại.
Với quy mô nắm giữ lớn cổ
phiếu VNM với giá trị lớn của khối ngoại, hiện tượng bán tháo VNM hiện nay và rất
có thể tương tự sau này với những cổ phiếu khác tại các doanh nghiệp lớn mà
SCIC đang nắm giữ, dư luận đang quan ngại về tác động tiêu cực của sự tháo lui
của dòng vốn ngoại lên ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Quan ngại này là hoàn toàn
có cơ sở nếu dựa trên những gì đã diễn ra với những nền kinh tế mới nổi trong
khu vực và trên thế giới. Một đặc điểm chung của những nền kinh tế này là đã phải
chứng kiến nhiều thời điểm nền kinh tế tăng trưởng nóng với nguồn vốn ngoại
“nóng” – vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài – chảy vào những nền kinh tế này để
“chộp giật” những cơ hội đầu tư béo bở mang tính thời điểm, chẳng hạ xu hướng
tăng lên nhanh chóng của các tài sản tài chính và bất động sản. Nhưng nếu thế
thì chưa đủ để gọi nguồn vốn ngoại này là “nóng”. Chúng chỉ thực sự “nóng” khi
chảy vào các nền kinh tế mới nổi này nhanh và ồ ạt thế nào thì lúc chảy ngược
ra, vì một lý do nào đó, còn nhanh và ồ ạt hơn thế.
Sự trồi sụt lớn mang tính
thời điểm như vậy là một thách thức cho các nhà đương cục và thực tế là một nguồn
cơn chủ yếu cho những cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới. Khi nguồn
vốn ngoại tháo lui ồ ạt, không kiểm soát (được), nó sẽ tạo áp lực lớn lên ngân
hàng trung ương các nước chủ nhà trong việc kìm giữ sự mất giá nội tệ và sự phá
sản hàng loạt doanh nghiệp vì mất khả năng trả nợ nước ngoài do bản tệ mất giá.
Nếu không thể kiểm soát nổi dòng vốn thoái lui này thì kết cục cuối cùng là nền
kinh tế tăng trưởng âm, tụt lại hàng nhiều năm trời, đi kèm với đó là nạn thất
nghiệp gia tăng và mức sống tụt giảm của dân chúng.
Quay trở lại với trường hợp
bán ròng cổ phiếu VNM hiện nay và có thể là sau này với những cổ phiếu của
doanh nghiệp lớn khác mà SCIC sẽ thoái vốn. Việc nhà đầu tư ngoại bán ròng cổ
phiếu VNM hiện nay làm nhiều người liên hệ đến việc đang có dòng vốn nước ngoài
đáng kể chảy ngược ra khỏi nền kinh tế Việt Nam. Nói cách khác, với họ, hiện đã
có dấu hiệu làm hoàn chỉnh cho một kịch bản khủng hoảng hoặc gần khủng hoảng
tài chính ở Việt Nam, với dòng vốn nước ngoài đổ vào mạnh để nắm giữ những cổ
phiếu của các doanh nghiệp lớn mang tính chi phối nền kinh tế Việt Nam và nay
đã bắt đầu bị “bán tháo” để tháo chạy khỏi Việt Nam.
Tuy vậy, điểm khác biệt lớn
nhất giữa Việt Nam trong bối cảnh hiện tại với những nước khác trong các cơn khủng
hoảng hay gần khủng hoảng tài chính khác là sự thoái vốn, tháo lui của khối ngoại
hiện nay bị/được châm ngòi (nếu có) không phải là do nhà đầu tư hoảng sợ, lo âu
với sức khỏe của nền kinh tế Việt Nam nói chung và những tiềm tàng bất ổn vĩ mô
nói riêng có thể dẫn đến khủng hoảng hay tổn thất lớn trong thời gian sắp tới.
Sự tháo lui của khối ngoại, nếu có, có thể chủ yếu chỉ là những toan tính chiến
lược đầu tư của từng cá nhân, từng tổ chức đầu tư mà thôi (ví dụ, giá đến bao
nhiêu thì chốt lãi, chuyển sang cổ phiếu khác hoặc dừng lại nghe ngóng trước
khi tiếp tục đầu tư hay nắm giữ nữa), chứ không mang tính phong trào theo kiểu
người này, tổ chức này làm hoảng sợ mang tính dây chuyền cho người khác và tổ
chức khác để rồi tất cả cùng đồng loạt tháo chạy.
Nếu đúng là sự tháo lui của
đại bộ phận nhà đầu tư ngoại chỉ phản ánh sự thay đổi chiến lược đầu tư và tái
cơ cấu danh mục đầu tư thì hành động tháo lui khỏi VNM hay các doanh nghiệp lớn
khác sẽ không nhất thiết gây ra những tác động tiêu cực, dù là ở mức độ chừng mực,
vì thực tế là nguồn vốn ngoại sau khi tháo lui khỏi VNM hay các doanh nghiệp lớn
khác vẫn sẽ chỉ quanh quẩn trong nền kinh tế Việt Nam, được phân bổ qua lại giữa
các hạng mục tài sản khác nhau hoặc trong cùng một hạng mục tài sản. Kể cả một
bộ phận của dòng vốn ngoại này có thực sự bị nhà đầu tư nước ngoài sau khi chốt
lãi rút về bản quốc hoặc chuyển sang thị trường nước khác thì tính chất “bộ phận”
này cũng chỉ gây ra một tác động mang tính “bộ phận”, tức là không đáng kể lên
nền kinh tế Việt Nam.
Suy cho cùng, dù dòng vốn
nước ngoài có chảy ngược ra khỏi nền kinh tế Việt Nam, trong chừng mực chảy ra
một cách có kiểm soát thì đây cũng là điều bình thường, đôi bên – Việt Nam và
nhà đầu tư nước ngoài – đều (đã) có lợi. Với Việt Nam, có thêm một nguồn vốn để
tăng trưởng và phát triển, dù là nguồn vốn để trống ngày đến hạn thanh toán. Với
nhà đầu tư ngoại, sự gia tăng giá trị tài sản nắm giữ tại Việt Nam giúp họ gặt
hái lợi nhuận kép (từ cổ tức và chênh lệch giá mua, bán cổ phiếu). Khi nguồn vốn
ngoại chảy vào, quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gia tăng.
Khi nguồn vốn ngoại chảy ra, nếu NHNN
không muốn có áp lực gia tăng lên tiền đồng thì họ bán bớt một phần (hoặc toàn
bộ) số ngoại tệ gia tăng này để “bình ổn” tỉ giá. Như vậy, nếu mọi việc diễn ra
trong trật tự, có kiểm soát thì dù vốn ngoại chảy ngược ra ngoài cũng sẽ chẳng
có gì đáng lo ngại, và với Việt Nam, “của thiên” không hoàn toàn phải “trả địa”.
Nói cách khác, điều quan
trọng ở đây để không xảy ra những hậu quả lớn cho nền kinh tế là sự thoái vốn
và rút về của nhà đầu tư ngoại phải là kết quả của những tính toán kinh tế
thông thường chứ không phải là hậu quả của sự tháo chạy hoảng loạn, mang tính bầy
đàn, không thể kiểm soát được, được kích hoạt bởi những rủi ro về kinh tế và
chính trị lớn trong nội bộ nền kinh tế bản địa. Trong chừng mực mà nền kinh tế
Việt Nam chưa bộc lộ những dấu hiệu rủi ro vĩ mô nghiêm trọng như nền kinh tế
tăng trưởng nóng với hàng loại chỉ báo như thâm hụt thương mại lớn, lạm phát
cao, tiền đồng lên giá thực lớn, nợ nước ngoài của doanh nghiệp gia tăng nhanh
chóng… thì chừng đó việc thoái vốn và rút lui của nhà đầu tư ngoại sẽ vẫn chỉ
là điều bình thường.
No comments:
Post a Comment