Friday 26 May 2017

Hạn chế rượu, bia là việc phải làm! (Bài đăng trên TBKTSG, 26/5/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/160433/Han-che-ruou-bia-la-viec-phai-lam.html

Bộ Y tế đã đưa ra dự thảo Luật Phòng chống tác hại rượu, bia, dự định ban hành trong năm nay, với nhiều quy định về các biện pháp nhằm giảm nhu cầu sử dụng rượu, bia.
Những tác hại to lớn không cần tranh cãi của việc lạm dụng rượu, bia gây ra cho nhiều cá nhân, gia đình và cả xã hội là bối cảnh của việc xây dựng dự thảo này.

Tuy vậy, vẫn có nhiều ý kiến “băn khoăn”, bàn lùi. Chẳng hạn, với những hãng sản xuất, phân phối rượu, bia thì việc đề xuất cấm, các tổ chức cá nhân kinh doanh rượu, bia thực hiện các hoạt động tài trợ cho sự kiện, hoạt động văn hóa - nghệ thuật, y tế, giáo dục, thể thao, vui chơi giải trí như trong dự thảo, sẽ làm hàng triệu người Việt Nam không được thỏa lòng... đam mê. Bởi lẽ, ví dụ, họ không được xem các trận đấu bóng đá đỉnh cao hay thưởng thức lễ hội âm nhạc mà các hãng sản xuất, phân phối này tài trợ.

Người khác thì lại liệt kê một số trường hợp ở các nước khác như Na Uy và Pháp (mà chẳng biết có đúng không) để cho rằng việc cấm quảng cáo rượu, bia thực tế không có tác dụng, thậm chí có tác dụng ngược!

Mục đích biện minh cho phương tiện

Không phải ngẫu nhiên mà các ý kiến trên phần lớn là từ các doanh nghiệp và cá nhân sản xuất, phân phối rượu, bia, bởi chắc chắn khi luật trên được thông qua thì sẽ ảnh hưởng mạnh đến doanh thu của họ. Nhưng cứ giả sử là họ đúng, không lẽ Nhà nước không định làm gì, cứ để mặc cho việc sử dụng rượu, bia ngày càng được khuyến khích, cổ vũ (bằng, ví dụ, các chương trình tài trợ, khuyến mãi như nêu trên), ngày càng tràn lan?


Câu trả lời tất nhiên là không. Trước tiên, hãy bàn về sự cần thiết của việc cấm, hạn chế. Đương nhiên là việc cấm, hạn chế sử dụng rượu, bia (bất luận là gián tiếp hay trực tiếp) sẽ không thể nào đạt hiệu quả cao ở cái nghĩa là toàn bộ sản lượng rượu, bia tiêu thụ của đất nước có thể sẽ “rơi thẳng đứng” ngay và mạnh, có thể đúng như người nào đó nói rằng là một thực tế xảy ra ở nước nọ, nước kia. Nhưng chỉ cần có một chút hiệu quả (mà chắc chắn là vậy) thì việc cấm, hạn chế rượu, bia vẫn là việc phải làm, thay vì không làm gì cả, thậm chí là làm ngược lại. Điều quan trọng là Nhà nước phải tỏ rõ lập trường và thái độ với rượu, bia và việc sử dụng chúng, nếu nhận thức rõ được tác hại của rượu, bia. Trong trường hợp này, đó chính là hành động thể hiện sự không đồng lõa, kiên quyết cấm và hạn chế sử dụng rượu, bia, được cụ thể hóa qua việc ban hành và thực thi luật trên.

Hãy liên tưởng việc cấm, hạn chế sử dụng rượu, bia với việc cấm, hạn chế sử dụng súng, vũ khí sát thương thì sẽ thấy sự cần thiết của một luật về cấm, hạn chế sử dụng rượu, bia. Hiển nhiên là dự thảo luật trên có thể còn có nhiều điểm bất hợp lý, nhưng điều này không có nghĩa là không cần, không nên ban hành và thực thi luật này.

Việt Nam không phải là ngoại lệ

Chuyển sang cách làm và tính hiệu quả. Cần lưu ý là việc ban hành luật trên không phải chỉ có ở Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới bằng hình thức này hay hình thức khác đều có những quy định hạn chế sử dụng rượu, bia, nhiều khi rất hà khắc hoặc... buồn cười. Quan trọng không kém là nhiều trong số chúng mang lại kết quả rõ ràng.

Sydney, một thành phố có tiếng của Úc về những vụ bạo lực liên quan đến rượu bia, đã ban hành luật quy định ngặt nghèo về giờ mở cửa và bán rượu, bia ở các quán bar. Theo báo chí đưa tin thì luật này đã làm giảm mạnh số vụ bạo lực, mặc dù các chủ quán bar và câu lạc bộ chịu thiệt hại nặng về doanh thu (đúng như dự đoán).

Các nước vùng Scandinavia vốn từ lâu có nhiều đệ tử “lưu linh” do có mùa đông băng giá khắc nghiệt kéo dài, thường chỉ cho phép bán rượu, bia trong các cửa hàng do nhà nước độc quyền. Các cửa hàng này cũng có thời gian mở cửa ngắn và đóng cửa vào Chủ nhật. Na Uy còn áp dụng thuế rượu, bia cao nhất thế giới (theo sau là Singapore).

Ngoài chuyện áp thuế rất cao lên rượu, bia, năm 2015, Singapore ban hành luật về cung cấp và tiêu thụ rượu, bia. Theo đó, cấm một phần việc uống rượu, bia ở nơi công cộng và hạn chế thời gian được mua, bán rượu bia (các cửa hàng không được phép bán rượu, bia sau 10 giờ 30 tối, và người dân cũng không được phép uống rượu, bia nơi công cộng sau 10 giờ 30 tối). Dù có thể có ai đó vẫn nói rằng những luật cấm đoán kiểu này không hiệu quả, nhưng có một thực tế phải được công nhận là giá rượu, bia ở Singapore rất đắt. Với giá đắt đỏ như vậy thì dù có muốn nghiện, muốn vui, muốn lách luật, chống luật cũng hơi... khó!

Malaysia, theo báo chí, cũng đang cân nhắc việc nâng độ tuổi hợp pháp uống rượu bia từ 18 lên 21. Chính phủ cũng không quên buộc nhà sản xuất phải dán nhãn cảnh báo lên vỏ chai, lon về tác hại của việc uống rượu, bia đến sức khỏe.

Nhiều bang ở Ấn Độ từ vài năm nay cũng tuyên chiến mạnh mẽ với rượu, bia, hoặc bằng việc cấm, hoặc bằng việc hạn chế mua, bán trong một nỗ lực giảm thiểu bạo lực và tệ nạn bắt nguồn từ rượu, bia. Đặc biệt hơn, Thủ hiến bang Madhya Pradesh, một bang miền trung Ấn Độ, còn đặt hàng 10.000 phiến gỗ ngắn chừng hơn 30 cen ti mét để trang bị cho các cô dâu mới cưới, dùng để “đánh những kẻ say”, và còn nói thêm “cảnh sát sẽ không can thiệp” khi các cô dâu dùng nó để “nói phải quấy” với chồng mình, nếu gã chồng say khướt và không chịu nghe họ nói, thậm chí còn thường xuyên đánh đập họ.

Chuyện này xem ra là thật chứ không phải chuyện cười, với ảnh chụp cô dâu cầm phiến gỗ như vậy, có thể xem tại đây: http://www.channelnewsasia.com/news/asiapacific/indian-brides-get-woolen-paddles-to-beat-drunk-husbands-with-8807738

Tuesday 23 May 2017

Để vốn ODA không còn là “̣chùm khế ngọt" (Bài đăng trên TBKTSG, 23/5/2017, tiêu đề do báo đặt lại)

http://www.thesaigontimes.vn/160177/De-von-ODA-khong-con-la-chum-khe-ngot.html

Chính phủ vừa ban hành Nghị định 52 về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ đối với ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Theo đó, UBND cấp tỉnh được vay lại từ nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi khi đáp ứng các điều kiện có dự án được cấp có thẩm quyền cho phép huy động vốn vay để thực hiện đầu tư phát triển kinh tế - xã hội hoặc dự án có phần vốn góp của ngân sách địa phương theo phương thức hợp tác công tư, thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn của địa phương do cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định tại Luật Đầu tư công.

Tốt trên lý thuyết

Có thể nói rằng sự ra đời của nghị định này là một nỗ lực của Chính phủ nhằm khắc phục tình trạng coi vốn ODA, vốn vay ưu đãi Chính phủ là “chùm khế ngọt” với các địa phương, và nhiều cá nhân liên đới. Do vốn ODA và vốn vay ưu đãi Chính phủ từ trước đến nay chủ yếu được phân bổ theo kiểu xin cho, cấp phát nên địa phương nào “giỏi xin” thì sẽ được cho mà không nhất thiết phải gắn với hiệu quả kinh tế xã hội của đồng vốn được sử dụng, và cũng không nhất thiết phải gắn với trách nhiệm trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Điều này là nguyên nhân chính dẫn đến thất thoát, lãng phí, sử dụng không hiệu quả các nguồn vốn vay này.

Từ thực tế trên, đã có một số đề xuất Chính phủ cho vay lại các nguồn vốn ưu đãi này thay vì cấp phát.

Việc cho vay lại được cho là sẽ buộc người sử dụng vốn vay - UBND các tỉnh có trách nhiệm hơn với đồng vốn mà họ đi vay về. Vì là vốn vay lại chứ không phải là được “cho không” như trước đây nên họ trở nên có trách nhiệm hơn với “tiền của người khác”, trước khi vay phải cân nhắc nguồn và khả năng trả nợ, đồng thời sẽ phải gánh chịu hậu quả khi không trả được nợ.


Lý thuyết là như vậy. Và rõ ràng là Nghị định 52 đã đi theo hướng này khi có các điều khoản quy định về điều kiện được vay lại, tỷ lệ cho vay lại, trách nhiệm trả nợ, và xử lý rủi ro (khi UBND tỉnh không trả được nợ).

Nhưng thực tế có thể vẫn... còn lỗ hổng

Nghị định 52 về bản chất vẫn là cơ chế xin cho, vẫn còn lỗ hổng, dễ bề bị lợi dụng.
Theo nghị định này, để được vay lại vốn ưu đãi, ngoài việc phải có dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, cho phép huy động vốn, và được bố trí vốn đối ứng, địa phương đó còn không được có dư nợ vượt quá hạn mức dư nợ của ngân sách địa phương, không có nợ vay lại của Chính phủ quá hạn, và nghĩa vụ trả nợ hàng năm đối với vốn vay lại ưu đãi không vượt quá 10% nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp.

Như vậy, với các địa phương đáp ứng được các điều kiện về dư nợ trong hạn mức, không có nợ quá hạn, và nghĩa vụ trả nợ hàng năm chưa vượt mức, dù hiện tại có thể là họ chưa hoặc không có (nhiều) dự án để được hưởng vốn vay lại ưu đãi thì họ sẽ “vẽ” ra cho đủ số các dự án loại này một cách không khó khăn gì, vì cơ quan “có thẩm quyền” như nêu chung chung trong Nghị định 52 hoàn toàn có thể là “người nhà” cả.

Điều quan trọng ở đây là tâm lý nếu đủ điều kiện được vay vốn ưu đãi thì chẳng tội gì không “vẽ” ra dự án để “xin” được tiền về cái đã, còn thực tế ra sao thì... tính sau, vốn là điều chẳng còn lạ lẫm gì ở Việt Nam qua hàng loạt vụ án kinh tế đình đám liên quan đến vốn Chính phủ vay nước ngoài về giao, cho các doanh nghiệp nhà nước vay lại.

Và cũng vì đã được quy định rõ ràng trong nghị định trên nên việc “xin” tiền càng trở nên đơn giản hơn so với trước đây, vì các bộ hữu trách không còn lý do gì để không phê duyệt khi mọi điều kiện để cho vay lại đều được đáp ứng đầy đủ trên giấy tờ.

Tiếp theo, Nghị định 52 chưa đề cập đến một vấn đề quan trọng là quy định chỉ một số trường hợp hữu hạn nào đó thì Chính phủ mới đứng ra đàm phán với các đối tác nước ngoài để vay vốn và cho các UBND tỉnh vay lại. Với các điều kiện để được vay lại vốn vay nước ngoài chung chung, đại trà như nêu trong nghị định thì rất có khả năng là mọi dự án của UBND tỉnh sẽ là đối tượng được hưởng nguồn vốn vay lại ưu đãi này, miễn là địa phương đó thỏa mãn được các điều kiện chung chung này.

Điều này không chỉ dẫn đến hậu quả nguồn vốn ưu đãi tiếp tục bị dàn trải, Chính phủ phải luôn chạy theo nhu cầu vay lại vốn ngày càng tăng lên của các địa phương cả nước. Trong trường hợp Chính phủ không đáp ứng nổi nhu cầu vay lại này (mà chắc chắn là vậy) thì lại dẫn đến chế độ phân phối vốn như trước đây dựa trên quan hệ xin cho, và/hoặc tỉnh nào, dự án nào “nhanh chân” và khéo “quan hệ” thì sẽ xin được vốn.

Đối với những dự án, địa phương “chậm chân” hoặc không đáp ứng đủ các điều kiện để vay lại vốn ưu đãi thì đây là một thiệt thòi, ngáng trở lớn (và trong dài hạn) nếu họ muốn phát triển, muốn vươn lên thông qua các dự án mà hoàn toàn có thể là tốt, có hiệu quả, nhưng không thực hiện được chỉ vì không tiếp cận được vốn (ưu đãi), một phần do vốn này đã bị hút về các địa phương, dự án khác.

Tiền vay mình hưởng, trả nợ là việc của người khác!

Đến đây, sẽ có nhiều người lập luận rằng chuyện địa phương “thích” vay lại vốn dù không thực sự cần thiết sẽ là khó xảy ra vì địa phương phải tính đến chuyện trả nợ, sẽ phải chịu hậu quả, trách nhiệm khi không trả được nợ (đúng hạn). Điều này như đã nói, chỉ đúng trên lý thuyết.

Khác với vay nợ tư nhân, nơi người đi vay phải thế chấp tài sản hoặc tín chấp, bảo lãnh (bằng uy tín của bản thân hay bằng tài sản và/hoặc uy tín của người khác), UBND các tỉnh vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ không cần bảo lãnh. Cá nhân vay nợ có thể “xù” nợ nhưng gánh nặng trả nợ và hậu quả sẽ còn theo họ suốt nên đôi khi việc không trả nợ chỉ là cực chẳng đã.

Trong khi đó, mang tiếng là UBND tỉnh vay nhưng đằng sau đó là một số cá nhân liên đới điều khiển và họ mới chính là những đối tượng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất khi vay được vốn. Quan trọng hơn, các cá nhân này làm việc theo nhiệm kỳ nên với họ, cứ vay (và hưởng lợi) đi đã, còn việc có trả được nợ hay không, bao giờ trả được nợ, ai và giải quyết thế nào với những hậu quả sau này khi không trả được nợ... là việc của tập thể, của cả địa phương, hoặc ít ra thì là của những người kế nhiệm họ. Và cứ như những gì đang diễn ra hiện nay thì quá lắm những người này chỉ bị cách những chức vụ trong quá khứ có liên quan đến việc vay lại vốn ưu đãi.

Hơn nữa, xử lý cá nhân thì còn dễ, nhưng sẽ không dễ nếu xử lý cả một địa phương. Chính phủ liệu có những biện pháp xử lý, trừng phạt nghiêm khắc gì nếu một địa phương nào đó “vỡ nợ” vốn vay lại?

Wednesday 17 May 2017

Thấy gì từ kế hoạch vay và trả nợ của Chính phủ? (Bài đăng trên TBKTSG, 17/5/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/159899/Thay-gi-tu-ke-hoach-vay-va-tra-no-cua-Chinh-phu.html

Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ năm 2017, với chi tiết như nêu ở bảng dưới đây.

Theo đó, năm nay Chính phủ dự định vay 342.000 tỉ đồng, trong đó có 243.000 tỉ là vay các nguồn trong nước, còn lại 99.000 tỉ là từ nguồn ODA và vay ưu đãi nước ngoài.
Về kế hoạch trả nợ, năm nay Chính phủ dự định trả 260.000 tỉ đồng nợ, trong đó 243.000 tỉ đồng là trả nợ trực tiếp của Chính phủ, 17.000 tỉ đồng là nợ của các dự án cho vay lại.

Điều đầu tiên có thể nói được về những con số “khô khan” và tối giản nói trên là về độ lớn của chúng. Nếu so với quy mô GDP theo giá thực tế của Việt Nam thì số nợ Chính phủ dự định trả trong năm nay tương đương khoảng 5-6% (năm 2015, GDP sơ bộ theo giá thực tế là 4,2 triệu tỉ đồng; chưa có số liệu cho năm 2016). Điều này có nghĩa là quy mô trả nợ của Chính phủ năm nay và trong mấy năm qua (gần) tương đương với giá trị thặng dư toàn bộ nền kinh tế tạo ra trong năm. Hay nói nôm na là làm ra chỉ đủ để trả nợ, không có mấy tích lũy. Hàm ý này cũng được minh chứng thêm bằng việc Chính phủ phải vay để đảo nợ liên tục từ nhiều năm qua. Việc dùng nợ để “nuôi” nợ này là hệ quả của việc vay nợ tiếp tục tăng lên trong khi khả năng trả nợ ngày càng suy giảm.

Thứ hai, nếu chỉ nhìn vào con số vay nợ của năm 2017 là 342.000 tỉ đồng so với con số vay nợ 452.000 tỉ đồng của năm trước, người ta có thể nói rằng tình trạng vay nợ năm nay đã có sự cải thiện đang kể khi quy mô vay nợ giảm mạnh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng con số 342.000 tỉ nói trên chưa/không bao gồm khoản vốn huy động bằng trái phiếu dành cho đầu tư phát triển, là khoản mục hàng năm trong kế hoạch vay nợ các năm trước đều có, đều được công bố, nhưng không hiểu vì lý do gì không được công bố cho năm nay. Giả sử khoản mục này năm nay bằng năm ngoái, tức là 60.000 tỉ đồng, là con số thấp nhất trong mấy năm gần đây, thì tổng giá trị vay nợ cần thiết sẽ vọt lên 402.000 tỉ đồng.


Con số 402.000 tỉ đồng này vẫn là điều đáng mừng, ở cái nghĩa là quy mô vay nợ của Chính phủ sẽ giảm đáng kể trong năm nay so với năm trước (giảm 50.000 tỉ đồng). Nhưng điều làm nó kém lạc quan hơn chính là ở góc độ đại bộ phận vốn Chính phủ đi vay về vẫn là để dùng cho trả nợ, phần vốn còn lại dành cho đầu tư phát triển vẫn “teo tóp”, giữ nguyên ở mức khiêm tốn như vậy (tỷ trọng vốn vay dành cho đầu tư phát triển năm 2016 là 13,2%, dự kiến năm nay tăng một chút - lên 14,9%, nếu Chính phủ tiếp tục dành khoản tạm tính 60.000 tỉ đồng nói trên cho đầu tư phát triển). Cứ như vậy thì khả năng “bóc ngắn cắn dài” sẽ còn tiếp tục vì năng lực sản xuất, tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm, làm giới hạn khả năng nhanh chóng trả nợ, giảm nợ của Chính phủ.

Thứ ba, cũng là một điều đáng mừng khác, khi số vốn vay dùng để bù đắp bội chi năm nay là 172.000 tỉ đồng, giảm gần một phần ba (giảm 82.000 tỉ đồng) so với năm 2016. Điều này, thoạt nhìn, có thể dẫn đến kết luận dễ dãi rằng bội chi ngân sách đã giảm mạnh nên
Chính phủ chỉ cần vay ít hơn để trang trải cho thâm hụt ngân sách.

Nhưng nếu nhìn vào khoản mục trả nợ gốc (hoặc “đảo nợ”, theo cách dùng của Chính phủ trong một số năm) thì tình hình cũng lại trở nên kém lạc quan hơn.

Cụ thể, năm nay Chính phủ dự định chi tới 144.000 tỉ đồng để đảo nợ, trong khi con số này năm trước mới là 95.000 tỉ đồng. Thực ra, bội chi ngân sách cần phải bao hàm cả khoản mục đảo nợ vì tiền dùng cho mục đích này rốt cuộc cũng là tiền lấy từ ngân sách nhà nước chứ chẳng phải là tiền ai đó hào phóng chi trả giúp cho Chính phủ. Do đó, nếu gộp hai khoản này lại thì nhu cầu vay để bù đắp bội chi ngân sách và đảo nợ năm 2017 là 316.000 tỉ đồng, chỉ giảm 33.000 tỉ đồng so với con số này của năm 2016 (349.000 tỉ đồng), tức chỉ bằng non nửa con số 82.000 tỉ đồng nêu ở đoạn trên.
Nói cách khác, nhu cầu vay để bổ sung cho ngân sách sẽ không giảm mạnh trong năm nay như điều đã cho thấy từ sự sụt giảm mạnh của khoản mục “bù đắp bội chi” trong kế hoạch vay nợ của Chính phủ.

Thứ tư, về kế hoạch trả nợ 260.000 tỉ đồng của Chính phủ trong năm nay, nếu so với con số 273.000 tỉ đồng của năm trước thì rõ ràng đây cũng là một sự cải thiện, vì nó cho thấy gánh nặng nợ nần đã giảm bớt trong năm nay. Tuy nhiên, cũng không rõ vì lý do gì mà kế hoạch trả nợ năm nay lại không có khoản mục đảo nợ như của năm trước. Điều này càng trở nên khó hiểu hơn vì rõ ràng là trong kế hoạch sử dụng vốn vay của Chính phủ năm nay có khoản mục dành cho đảo nợ (144.000 tỉ đồng) như đã phân tích ở trên.

Để thận trọng hơn, ta hãy chú ý đến sự tăng vọt của khoản mục trả nợ trực tiếp của Chính phủ, 243.000 tỉ đồng trong năm 2017 so với chỉ 154.000 tỉ đồng trong năm 2016. Không loại trừ khả năng là năm nay Chính phủ lại tính gộp khoản mục đảo nợ vào khoản mục trả nợ trực tiếp của Chính phủ. Nếu đúng vậy thì ta có thể tạm thời “thở phào” vì điều này cũng vẫn cho thấy rằng quả thật là gánh nặng nợ nần cũng như việc phải vay để đảo nợ đã được cải thiện phần nào trong năm nay.

Nhưng nếu không phải vậy thì đây không những là một thiếu sót khó hiểu, khó chấp nhận, mà còn cho thấy những dấu hiệu nguy hiểm khi nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ tăng vọt trong năm nay so với năm 2016 (tăng tới 89.000 tỉ đồng).

Cuối cùng, có một tín hiệu phấn khởi hơn sau những gì đã thấy từ những con số nêu trong phân tích ở trên. Đó là con số kế hoạch đi vay để cho vay lại (26.000 tỉ đồng trong năm nay so với 43.000 tỉ đồng trong năm 2016), cũng như con số kế hoạch trả nợ cho các dự án cho vay lại (17.000 tỉ đồng trong năm 2017 so với 24.000 tỉ đồng trong năm 2016). Những con số này cho thấy Chính phủ đã thật sự trở nên thận trọng, e dè hơn với việc vay để cho vay lại, vốn là một trong những nguồn gốc dẫn đến gánh nặng nợ công ngày càng phình to khó kiểm soát.

Tóm lại, về tổng thể, kế hoạch vay và trả nợ của Chính phủ năm 2017 cho thấy một số tín hiệu lạc quan hơn về chuyện nợ nần của Chính phủ. Tuy nhiên, do có một số khác biệt trong nội dung thông tin công bố, không biết là bởi do vô tình hay cố ý, nên bức tranh về ngân sách nói chung, về vay nợ và khả năng trả nợ của Chính phủ nói riêng vẫn còn nhiều góc khuất cần làm sáng tỏ thêm trước khi người ta có thể tạm thời an tâm rằng tình hình đang tiến triển theo hướng lành mạnh hơn.

Tuesday 16 May 2017

Hỗ trợ khởi nghiệp: Tấm huy chương hai mặt (Bài đăng trên Doanh nhân Sài gòn, 16/5/2017)

http://www.doanhnhansaigon.vn/khoi-nghiep/ho-tro-khoi-nghiep-tam-huy-chuong-hai-mat/1104382/

Mấy năm gần đây phong trào khởi nghiệp ở Việt Nam đã nhận được sự quan tâm lớn của Nhà nước và cộng đồng. Điều này một phần là bởi nhận thức rằng khởi nghiệp là một kênh hữu hiệu để làm giàu cho cá nhân, cộng đồng và cả quốc gia, thoát khỏi tình trạng trì trệ trong tăng trưởng kinh tế và lối mòn trong tư duy ỉ lại và thụ động, đặc biệt của tầng lớp trẻ.

Từ phía Nhà nước, nhiều sáng kiến với chiến lược quốc gia về khởi nghiệp đã được đề xuất và khởi động. Gần đây có đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" với hàng loạt biện pháp cụ thể nhằm hỗ trợ cộng đồng khởi nghiệp như xây dựng khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo, phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khuyến khích sử dụng quỹ của các cơ quan để góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp, ưu đãi về thuế.

Rõ ràng, sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước có vai trò quan trọng đối với dự án khởi nghiệp của các cá nhân và tập thể mà ban đầu thường không có gì đáng kể về tài vật, chỉ có ý tưởng sáng tạo và tinh thần quyết tâm cộng với sự tự tin sẽ thành công. Tuy nhiên, hỗ trợ cho ai, hỗ trợ như thế nào và bao nhiêu thì phù hợp là bài toán khó với Việt Nam. Cái khó đầu tiên là tài chính.

Một số nước thường được viện dẫn như là cái nôi, môi trường lý tưởng cho khởi nghiệp nhưng tiếc rằng đó lại thường là các nước và vùng lãnh thổ đã phát triển, giàu có như các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Israel, Singapore, Đài Loan và Hồng Kông.

Thế nên, với tiềm lực kinh tế còn rất hạn chế của Việt Nam thì việc "noi gương" những nước này để thúc đẩy phong trào khởi nghiệp trên diện rộng là điều khó khả thi. Và nếu có thực hiện được trên quy mô lớn thì chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng các nguồn lực vốn rất nhỏ bé, hữu hạn lại bị dàn trải quá mức, dẫn đến mỗi DN startup nếu may mắn sẽ chỉ nhận được một phần nhỏ so với nhu cầu tài vật cần thiết để đưa startup đến thành công.

Tiếp đến, sự hỗ trợ tài vật của Nhà nước cho các startup nhiều khi lại đưa đến những kết quả không mong muốn. Đó là sự ra đời và tồn tại của những DN theo kiểu "xác sống", hoạt động thoi thóp, tạo ra rất ít hiệu quả kinh tế như công ăn việc làm, thu nhập và tăng trưởng.
Hãy lấy ví dụ về Singapore, một nước được coi là có môi trường lý tưởng để khởi nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ với sự hậu thuẫn của chính phủ nhằm cạnh tranh với vị thế của Thung lũng Silicon, Mỹ.


Cũng cần biết thêm là Singapore, học hỏi mô hình của Israel, cũng hỗ trợ tới 85% vốn cần thiết cho DN startup (15% còn lại dành cho các nhà đầu tư tư nhân), nhưng điều khác biệt là Singapore không đưa ra các điều kiện khó khăn hơn, trong đó có mức độ công nghệ mà DN sẽ phát triển, để được chính phủ cấp vốn như ở Israel.

Theo một khảo sát hồi năm 2016 của Trung tâm Khởi nghiệp thuộc Đại học Quốc gia Singapore (NUS), tuy có đến hơn phân nửa số DN startup ở nước này sống sót sau 5 năm kể từ ngày thành lập, so với tỷ lệ chỉ 42% ở Anh, nhưng rất nhiều trong số DN tồn tại này hoạt động cầm chừng, không tạo ra mấy công ăn việc làm và doanh thu.

Điều này xảy ra bất chấp thực tế Singapore là một trong những nơi dễ dàng để khởi nghiệp nhất trên thế giới, cũng như nước này được hưởng lợi từ một lực lượng lao động có trình độ cao và sự tiếp cận các thị trường rộng lớn và tăng trưởng nhanh ở Đông Nam Á.

Cụ thể hơn, kết quả khảo sát nói trên chỉ ra rằng, hơn một nửa trong số 530 DN trong lĩnh
vực công nghệ tính trung bình có ít hơn 5 lao động và doanh thu trung bình hằng năm ở mức 200.000SGD (khoảng 3,2 tỷ đồng). Chỉ có 8% trong số DN tham gia khảo sát thuộc dạng tăng trưởng nhanh với doanh thu trung bình hằng năm đạt 4 triệu SGD (64 tỷ đồng).

Tệ hơn, ngay cả trong số DN thành công và tăng trưởng nhanh này có đến trên 2/3 DN chỉ đơn giản sao chép ý tưởng kinh doanh đã thành công ở đâu đó, chứ không phải thành công dựa trên sáng tạo riêng của mình. Cuộc khảo sát cũng cho thấy có rất ít DN đang hoạt động trong lĩnh vực "công nghệ sâu" và có tính cách mạng như trí tuệ nhân tạo và khả năng học hỏi của máy móc.

Do vậy, bài học rút ra từ trường hợp của Singapore và rộng hơn là của Israel - mô hình mà Singapore học hỏi không đến nơi đến chốn - có thể áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là hỗ trợ cần có tính chọn lọc, trọng điểm, với những yêu cầu khắt khe về lĩnh vực và chất lượng hoạt động, cũng như khả năng tăng trưởng của DN startup để sao cho nguồn lực có hạn của Nhà nước được dồn cho những DN có khả năng tăng trưởng nhất trong các lĩnh vực sáng tạo, có chiều sâu về công nghệ.

Nếu không, sự hỗ trợ của Nhà nước tiếp tục bị dàn trải, lãng phí cho những DN mang tiếng là startup nhưng chỉ là những DN thông thường, không có sức lan tỏa sâu rộng cả về công nghệ lẫn kinh tế.

Friday 5 May 2017

BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài: yếu cơ sở, thiếu ngoại trừ (Bài đăng trên TBKTSG, 6/5/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/159677/BHXH-bat-buoc-voi-lao-dong-nuoc-ngoai-yeu-co-so-thieu-ngoai-tru.html

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) đang lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo nghị định về đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có hợp đồng từ một tháng trở lên. Chế độ bảo hiểm cơ bản gồm ốm đau, thai sản, bệnh nghề nghiệp, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất.

Dự thảo nghị định này chưa đưa ra được lý do thỏa đáng để giải thích tính cần thiết phải áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, nếu cứ áp dụng như dự thảo mà không có thêm các ngoại trừ thì có thể sẽ tạo ra những trói buộc và khó khăn cho cả người lao động nước ngoài và phía sử dụng lao động một cách không cần thiết.
 
Cơ sở đề xuất thiếu thuyết phục
 
Tờ trình dự thảo nghị định đưa ra ba nguyên tắc định hướng làm cơ sở đề xuất nội dung BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài, gồm “bình đẳng trong đối xử”, “có đi có lại”, và “cộng dồn”.

Về nguyên tắc “bình đẳng trong đối xử”, theo tờ trình thì nguyên tắc này được nêu ra bởi Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhằm đảm bảo bình đẳng giữa lao động trong nước và lao động nước ngoài ở cả chín chế độ BHXH. Theo đó, việc áp dụng chính sách BHXH của một quốc gia đối với lao động của mình như thế nào thì được khuyến nghị áp dụng đối với lao động nước ngoài tương tự như vậy. Như thế có thể hiểu là Việt Nam đã áp dụng BHXH bắt buộc với lao động Việt Nam thì cũng cần phải áp dụng bình đẳng như vậy với lao động nước ngoài.
 
Nhưng cần nói ngay rằng không phải nước nào trên thế giới cũng áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài. Ví dụ, ở Singapore, việc đóng BHXH chỉ được áp dụng với công dân Singapore hoặc thường trú nhân Singapore (người nước ngoài có “thẻ xanh”, được phép cư trú dài hạn tại Singapore). Những lao động nước ngoài khác (lao động nhập cư các loại, trừ người có “thẻ xanh”), và nhân viên biệt phái nước ngoài (do công ty nước ngoài cử đến Singapore làm việc tạm thời) thì không phải đóng BHXH. Công ty sử dụng họ cũng không phải cùng tham gia đóng BHXH cho họ. Không những thế, họ và công ty của họ cũng không được phép đóng BHXH tại Singapore dù tự nguyện và mong muốn. Ngay cả công dân và thường trú nhân nếu có thu nhập (kể cả trong trường hợp tự doanh) thấp hơn một ngưỡng tối thiểu nào đó do luật quy định thì cũng không phải đóng BHXH.
   
 
Nói cách khác, nguyên tắc “bình đẳng trong đối xử” của ILO, nếu có, chỉ mang tính khuyến nghị, chứ không mang tính ràng buộc (đa phương) và không được áp dụng ở mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, Việt Nam cũng không nhất thiết phải áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài, dù là lao động có hợp đồng từ một tháng trở lên.

Nguyên tắc “có đi có lại”, theo tờ trình dự thảo, thể hiện một quốc gia áp dụng chính sách BHXH đối với công dân nước ngoài như thế nào thì công dân nước đó ở nước ngoài cũng sẽ được áp dụng chính sách BHXH tương tự.

Liên quan đến nguyên tắc này, cần biết thêm rằng Singapore cũng không có các thỏa thuận về BHXH với bất cứ nước nào khác trên thế giới. Trong khi đó, như trên đã nói, trong số lao động nước ngoài ở Singapore, gồm đông đảo lao động người Việt, rất nhiều người không có “thẻ xanh” nên không “được” đóng BHXH bắt buộc tại Singapore.

Điều này có nghĩa là trên thực tế có thể có nhiều nước không áp dụng BHXH bắt buộc với lao động Việt Nam như Singapore, nên nếu Việt Nam vận dụng nguyên tắc “có đi có lại” để áp dụng BHXH bắt buộc “đồng bộ” với mọi lao động nước ngoài, kể cả những người đến từ những nước không áp dụng BHXH bắt buộc với lao động Việt Nam, thì sự vận dụng này là… nhầm chỗ!

Những nước này không áp dụng BHXH bắt buộc với mọi lao động Việt Nam thì không có lý gì Việt Nam phải/nên áp dụng BHXH bắt buộc với lao động của họ. Và cũng bởi vậy, nếu cứ muốn áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài thì Việt Nam cũng nên/phải có điều khoản loại trừ áp dụng với lao động đến từ một số nước không có quy định tương tự với lao động Việt Nam để cho đúng với tinh thần của nguyên tắc “có đi có lại” này.
 
Với nguyên tắc “cộng dồn”, theo tờ trình, là cộng dồn về thời gian tham gia BHXH. Theo đó, thời gian tham gia BHXH ở cả nước nơi người lao động đi và nước nơi người lao động đến làm việc đều được tính khi xem xét điều kiện về tổng thời gian tham gia để hưởng chế độ.
Tuy nhiên, thật khó tưởng tượng có một nước nào đó lại chấp nhận tính số năm mà công dân của họ lao động và nộp BHXH ở Việt Nam vào tổng số năm nộp BHXH tại nước này.
Ngược lại, trong dự thảo nghị định dường như cũng không có một điều khoản nào quy định về chuyện cộng dồn số năm nộp BHXH ở bản quốc của lao động nước ngoài vào tổng số năm nộp BHXH tại Việt Nam để làm cơ sở tính chế độ hưởng BHXH tại Việt Nam.
 
Dù có muốn và để thực hiện được nguyên tắc này thì chí ít Việt Nam cũng phải đàm phán và thỏa thuận với các nước khác về tinh thần và cách thức thực hiện, trước khi ban hành quy định áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài.
 
Tóm lại, cả ba nguyên tắc định hướng mà tờ trình dự thảo nghị định này viện ra vẫn chưa giải thích thỏa đáng cho sự cần thiết phải áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài tại Việt Nam.
 
Gây thêm khó khăn
 
Dự thảo nghị định quy định lao động nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ một tháng trở lên thì thuộc diện áp dụng BHXH bắt buộc (khi có hoặc giấy phép lao động, hoặc chứng chỉ hành nghề, hoặc giấy phép hành nghề).

Tuy nhiên, việc áp dụng “đồng bộ” cho mọi đối tượng như trên mà không có những điều khoản loại trừ sẽ gây ra những khó khăn lớn cho nhiều lao động nước ngoài và người sử dụng họ ở Việt Nam.
 
Ví dụ, với những nước như Mỹ, luật pháp họ quy định trong nhiều trường hợp các công dân Mỹ dù làm việc ở nước ngoài thì vẫn phải đóng BHXH cho Mỹ. Nếu có Thỏa thuận toàn bộ (Total Agreement) giữa Mỹ với nước sở tại mà công dân Mỹ đang làm việc thì công dân Mỹ chỉ phải đóng BHXH cho một trong hai nước. Nhưng do giữa Mỹ và Việt Nam không có một thỏa thuận loại này nên người lao động từ Mỹ và doanh nghiệp sử dụng họ sẽ phải trả cả hai loại BHXH cùng lúc.
 
Vì gánh nặng BHXH bắt buộc này nhiều khi là quá lớn nên doanh nghiệp sẽ không tuyển dụng lao động đến từ Mỹ hay những quốc gia có quy định tương tự nữa, và điều này đồng nghĩa với môi trường kinh doanh ở Việt Nam trở nên xấu hơn, cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp thu hẹp (vì không phải lúc nào cũng tìm được người lao động thay thế phù hợp).
Cũng trên ý nghĩa này, nếu muốn áp dụng BHXH bắt buộc với lao động nước ngoài thì Việt Nam trước tiên cần ký kết thỏa thuận tránh nộp BHXH hai lần, và áp dụng điều khoản loại trừ với những trường hợp không có thỏa thuận song phương này.

Cần nhanh chóng thực hiện đấu giá biển số xe (Bài đăng trên TBKTSG, 28/4/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/159430/Can-nhanh-chong-thuc-hien-dau-gia-bien-so-xe.html

Gần đây Bộ Công an đã họp với đại diện các bộ Tài chính, Tư pháp để lấy ý kiến, xây dựng dự thảo đề án đấu giá biển số xe. Theo Bộ Công an, việc đấu giá quyền sử dụng biển số xe nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, đồng thời tăng tính minh bạch, phòng ngừa tiêu cực trong lĩnh vực này. Trước mắt khi chưa có phương án tối ưu để đấu giá biển số xe phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, Bộ sẽ kiến nghị Chính phủ đưa ra lộ trình để thí điểm.

Đấu giá biển số xe là cần thiết, cần làm ngay

Đầu năm ngoái, trong một phiên đấu giá công khai tại Singapore, biển số xe cổ “S 32 H” (được cấp khoảng 70 năm trước) đã được bán với giá 335.000 đô la Singapore (khoảng 5,4 tỉ đồng).
Ảnh chụp một góc trang mạng của Land Transport Authority (Bộ Giao thông) Singapore liệt kê các biển số xe sẽ được đưa ra đấu giá (https://www.onemotoring.com.sg/content/onemotoring/en/lta_e_services/online_enquiries/available_numbers.html)
Tại Pakistan, đầu năm nay, biển số “1” được bán với giá kỷ lục ở nước này là 710.000 rupee Pakistan (khoảng 154 triệu đồng). Mới tháng trước, ở Ấn Độ, biển số “KL 01 CB 1” được chốt ở mức 1,8 triệu rupee Ấn Độ (khoảng 630 triệu đồng) trong một phiên đấu giá. Tuy vậy, những con số “khủng” này chưa thấm vào đâu so với cái giá chốt trong phiên đấu giá cho biển số “1” là 18 triệu AED (khoảng 111 tỉ đồng) tại các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất hồi giữa năm ngoái.

Nhìn chung, biển số xe càng hiếm, càng “độc”, càng đẹp thì càng được săn lùng và được bán với giá cao, nhiều lúc đến mức không thể tin nổi như nêu ở trên. Nhưng điều này là hoàn toàn hợp lý nếu nhìn dưới góc độ cung cầu trong kinh tế học cũng như từ góc độ tâm lý.
 
Ví dụ, tại Singapore, nơi giá ô tô cao ngất ngưởng vì thuế và phí, người dân không chỉ nhìn vào bản thân cái ô tô mà họ còn nhìn vào biển số xe. Với những người thuộc giới siêu giàu thì những chiếc “siêu xe” giá lên đến hàng triệu đô la Mỹ không thể mang biển số bình thường. Họ cần một biển số đẹp, độc đáo để thể hiện đẳng cấp của họ. Còn với những người khác, có thể họ cần một biển số với các con số “may mắn” để thay đổi vận mệnh.
 
Trong bối cảnh cung nhỏ hơn cầu, hiển nhiên việc Chính phủ nên làm, hoặc phải làm, là bán biển số xe cho những người có khả năng mua với giá cao nhất, chứ không phải là cấp, hoặc phân phối biển số xe, dù là theo kiểu lựa chọn ngẫu nhiên công khai, và càng không phải là kiểu lựa chọn ngẫu nhiên mang tiếng là công khai nhưng được tiến hành sau cánh cửa đóng im ỉm tại cơ quan có thẩm quyền. Cách thức tốt và duy nhất để bán được với giá cao nhất là đấu giá công khai.
 
Số tiền thu về qua bán đấu giá biển số sẽ là một khoản thu đáng kể bổ sung vào ngân sách nhà nước trung ương và địa phương. Càng trì hoãn việc đấu giá biển số xe thì ngân sách càng bị thiệt hại, đồng nghĩa với việc tiền sẽ tiếp tục chảy vào những cái túi riêng của những người có quyền và trục lợi. Lưu ý là số thu này cần phải được coi là tiền ngân sách và được sử dụng cho các mục tiêu chi từ ngân sách, chứ không phải là khoản tiền “bắt được” nên có thể phung phí cho những mục đích khoác áo “từ thiện” nhưng khó bề quản lý, theo dõi vì không phải trải qua quy trình xét duyệt chặt chẽ, dễ gây phung phí, thất thoát và tham nhũng.
 
Trở ngại
 
Có thể nói rằng về mặt kỹ thuật thực hiện, việc đấu giá biển số xe hầu như sẽ không vướng phải khó khăn gì để phải làm thí điểm ở một địa phương, theo một lộ trình nào đó, vì chuyện này đã rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới nên Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo cách làm của họ để áp dụng đồng bộ ở Việt Nam trong thời gian sớm nhất. Hơn nữa, một số tỉnh thành như Hải Phòng, Bình Thuận và Nghệ An đã từng tiến hành đấu giá thành công biển số xe nên chuyện đấu giá này cũng không còn lạ lẫm gì ở Việt Nam nữa.
 
Trở ngại còn lại cho việc thực hiện đấu giá biển số xe ở Việt Nam, nếu có, chỉ là sự thiếu vắng cơ sở pháp lý để thực hiện. Hiện tại, biển số xe không thuộc danh mục tài sản đấu giá như trong quy định của Luật Đấu giá tài sản. Đồng thời, nếu thực hiện đấu giá (tức là mua bán) biển số xe thì biển số xe sẽ trở thành tài sản cá nhân nên chủ sở hữu có thể cho, tặng, bán cho người khác. Nhưng hiện nay việc mua, bán biển số xe bị cấm theo Luật Giao thông đường bộ.

Những vướng mắc trên thực ra có thể gỡ bằng việc bổ sung, điều chỉnh luật và cũng sẽ không tốn thời gian và công sức cho việc này nếu mọi bên liên quan đều “thông”. Về vấn đề này, cũng nên tham khảo cách làm của các nước. 
 
Ví dụ, ở Singapore, chủ sở hữu xe được quyền giữ biển số xe này chừng nào người này trả đủ phí và hoàn thành các giấy tờ cần thiết, và biển này được đăng ký cho một chiếc xe cụ thể nào đó. Trong trường hợp của biển số cổ “S 32 H” nói trên, biển số này hiện đang được gắn cho một chiếc xe hiệu Mercedes C180. Luật Singapore cũng quy định biển số xe mua được qua đấu giá không được chuyển nhượng cho người khác. Nhưng việc chuyển nhượng này có thể thực hiện một cách gián tiếp, trước tiên bằng cách chuyển đăng ký biển số này cho một chiếc xe cũ, hỏng, rẻ tiền nào đó. Sau đó, người chủ của biển số xe này (và chiếc xe cũ gắn biển này) sẽ thực hiện chuyển nhượng (bán) chiếc xe cũ này với biển số gắn trên nó cho người chủ mới, với một số chi phí trả cho Chính phủ gắn kèm với quá trình chuyển nhượng này.
 
Như vậy, nếu áp dụng cách làm như của Singapore hiện nay thì hoàn toàn có xử lý thỏa đáng được những câu hỏi về pháp lý hiện đang được thảo luận ở Việt Nam, ví dụ như liệu biển số xe có phải là tài sản không, có được cho, tặng, bán không, và làm thế nào để chuyển nhượng được.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).