Tuesday 20 June 2017

Để giải quyết dứt điểm nợ xấu (Bài đăng trên TBKTSG, 20/6/2017)


http://www.thesaigontimes.vn/161395/De-giai-quyet-dut-diem-no-xau.html

Vấn đề nợ xấu đã trở thành tâm điểm của kỳ họp Quốc hội hiện đang diễn ra, tập trung vào nội dung của một nghị quyết liên quan đến giải quyết nợ xấu. Tuy đã có rất nhiều ý kiến góp ý và kiến nghị cho nghị quyết này nhưng có một số điểm mấu chốt chưa được đề cập đến (một cách thấu đáo).
Chủ trương không dùng ngân sách xử lý nợ xấu cần ngoại lệ

Dường như các đại biểu Quốc hội đã khá thống nhất với chủ trương không dùng ngân sách để xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, nếu xét trên nguyên tắc lỗi do ai tạo ra người đó phải chịu trách nhiệm thì cần phải xem xét thấu đáo và quy trách nhiệm sòng phẳng đối với các cơ quan hữu trách cho nhiều khoản nợ xấu phát sinh và tích tụ bấy lâu nay.

Có lẽ không mấy người nhớ đến Văn bản 5342/NHNN/TTGSNH ban hành ngày 24-7-2014 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gửi các tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu đẩy mạnh việc cho vay vốn ra thị trường, đặc biệt đối với khách hàng không có tài sản bảo đảm (vay tín chấp). Đây chỉ là một ví dụ cho thấy việc “hưởng ứng” hoặc tuân thủ chỉ đạo của các cơ quan quản lý hữu quan có thể đã gây ra những thiệt hại lớn cho các ngân hàng thương mại (NHTM). Nếu việc đẩy mạnh cho vay đã diễn ra và một phần trong số dư nợ cho vay theo chỉ đạo này biến thành nợ xấu mà không có tài sản bảo đảm thì các NHTM chỉ còn nước “bắc thang lên hỏi ông trời”.

Với những khoản nợ xấu kiểu này cùng với những khoản nợ xấu tương tự phát sinh bởi sự can thiệp và chỉ định của các cơ quan chức năng và quan chức nhà nước (như cho vay trong các chương trình lẫn chiến lược) thì một vài nghị quyết xử lý nợ xấu của Quốc hội như hiện nay cũng chẳng thể làm gì khác được. Đống nợ này sẽ còn “treo” mãi đó trong sổ sách kế toán của các NHTM hoặc của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), trừ khi các cơ quan liên đới đứng ra nhận (hoặc bị quy rõ) trách nhiệm và phải có biện pháp khắc phục kèm theo đó như xóa nợ, hoặc dùng ngân sách hay tài sản cá nhân của người ra quyết định chỉ đạo cho vay để trả nợ thay cho người vay, tương tự như với những vụ việc tòa án kết tội oan cho công dân vừa qua.

Công khai nợ xấu là cần thiết, nhưng những ai phải công khai và đến đâu?

Có một vài người đã kiến nghị rất xác đáng về sự cần thiết phải công khai nợ xấu. Đây là điều cần thiết vì muốn trị bệnh thì trước tiên phải hiểu mức độ trầm trọng của bệnh. Nhưng tiếc là những kiến nghị kiểu này mới chỉ đề cập đến trách nhiệm (và cơ chế khuyến khích) các NHTM không che giấu nợ xấu mà không đề cập đến trách nhiệm của cơ quan quản lý hữu trách, mà cụ thể ở đây là NHNN.

Xin lấy một ví dụ minh họa. Dù vụ việc xảy ra đã lâu và hiện nay đã trở thành đại diện chủ sở hữu của các ngân hàng mua lại bắt buộc nhưng NHNN chưa bao giờ công bố (đầy đủ) tình trạng nợ xấu của các ngân hàng này. Thậm chí, trong các thống kê công bố trên trang web của NHNN về tình hình hoạt động của hệ thống tín dụng (tính đến tháng 12-2016), số liệu tài chính của các ngân hàng này cũng bị loại trừ và không ai biết được lúc nào thì bức tranh thật sự về tình hình sức khỏe của các ngân hàng này mới được công bố.

Trên bề mặt thì là nguyên nhân khách quan, nhưng suy cho cùng phần nhiều do chủ quan.

Ngoại trừ những yếu tố khách quan thực sự, gồm có sự cho vay theo chỉ định, chỉ đạo như nói ở trên, nợ xấu thường được tùy tiện đổ thừa do bất ổn chính trị, khủng hoảng kinh tế, chính sách kinh tế vĩ mô thiếu ổn định... Thoạt nghe thì có lý, nhưng xét cho cùng thì đều có một phần lỗi chủ quan của chính các NHTM cho vay. Tại sao họ lại chọn ngành đó, lĩnh vực đó, doanh nghiệp đó, khách hàng cá nhân đó, vào thời điểm đó, với số dư cho vay đó, bằng tài sản bảo đảm đó (hoặc không có)... trong khi các NHTM khác không bị vướng phải hoặc vướng nhưng mức độ nghiêm trọng không bằng? Vậy thì “tiên trách kỷ”, trước hết các ngân hàng nên chủ động xử lý nợ xấu mà không nên, không thể đổ lỗi cho ai, không thể trông chờ sự giúp đỡ của bất cứ ai mà có thể làm chậm lại quá trình xử lý nợ xấu.

Ngược lại, Nhà nước không nên coi những yếu tố “khách quan” này là lý do để có những nhân nhượng, thỏa hiệp trong việc thúc đẩy các NHTM giải quyết nợ xấu. Mặt khác, cũng chính từ phương diện “bất ổn khách quan” này, với tư cách là một điều kiện cần để nợ xấu không một lần nữa trở thành “đại dịch” thì Nhà nước cần phải luôn duy trì một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, có thể tiên lượng được, chứ không chỉ tập trung vào việc ban hành và hoàn thiện các quy định pháp lý về xử lý nợ xấu như hiện thời.

Thị trường mua bán nợ thôi chưa đủ, cần thêm nhiều thành viên bình đẳng về tư cách

Sự thiếu vắng một thị trường mua bán nợ hiện tại được coi là một trong những nút thắt chính trong công cuộc xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, điều nghịch lý là những dự thảo, đề xuất hiện thời liên quan đến phát triển thị trường mua bán nợ dường như lại không muốn mở rộng cửa thị trường này ra để đón tiếp các thành viên đầy tiềm năng khác (với đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ) gồm các tổ chức quản lý tài sản (AMC) của các NHTM và nhà đầu tư nước ngoài, ngoài một số thành viên hạn chế như VAMC, các NHTM và một số công ty kinh doanh liên đới.

Ngoài ra, dù có nguồn lực tài chính (tiền tươi thóc thật) rất hạn chế nhưng VAMC đang được (đề xuất) trao quá nhiều quyền hạn, thậm chí là đặc quyền “một mình một chợ”, mặc dù thực sự thì các khoản nợ xấu mà họ nắm giữ không phải thuộc về họ mà chỉ là “giữ hộ” cho các NHTM.

Không cho phép nhập nhằng nợ xấu là cần thiết, nhưng có dám làm đến nơi đến chốn?

Có đại biểu Quốc hội đề nghị ngân hàng phải sớm có báo cáo cụ thể tên của các tổ chức, cá nhân nào đang gây ra nợ xấu, để trên cơ sở đó Quốc hội sẽ xem xét, với chủ trương “truy tận gốc, trốc tận ngọn”, không cho phép nhập nhằng nợ хấu. Điều này là cần thiết để tránh tình trạng người/tổ chức gây ra nợ xấu lại không bị xử lý, dẫn đến kỷ cương phép nước bị coi thường, tạo ra “vết xe đổ” cho những lần vi phạm khác (của người/tổ chức khác).

Tuy nhiên, trên thực tế, sẽ có hay không tình thế “dao sắc không gọt được chuôi”? Bản thân các cơ quan quản lý và nhiều quan chức cấp cao là tác nhân (gián tiếp và trực tiếp) của không ít khoản nợ xấu như đã nêu ví dụ ở trên và đã chứng kiến trên thực tế. Nếu không xử lý vấn đề này rốt ráo thì khó tránh khỏi nợ xấu sẽ tiếp tục phát sinh mạnh sau này, kể cả khi đã có nghị quyết và luật xử lý nợ xấu.

Vẫn cần khu biệt nợ xấu theo thời gian

Một số ý kiến cho rằng nợ xấu phát sinh là vấn đề tất yếu, nợ xấu nào cũng là nợ xấu, vì thế không nên giới hạn phạm vi xử lý nợ xấu (ví dụ từ ngày 31-12-2016 trở về trước).

Tuy nhiên, lập luận này không hoàn toàn đúng. Trước hết, nhận thức và hành động liên quan đến nợ xấu hiện nay khác xa với trước đây, đặc biệt xét trong bối cảnh “u u minh minh” trong những năm trước. Nhưng hiện nay và sau này, nếu các bên liên đới vẫn không rút được bài học từ quá khứ, tiếp tục (cố tình) lập lại những sai lầm làm phát sinh nợ xấu trong thời gian tới dù đã được vạch trần, cảnh báo, xử lý rộng rãi như hiện nay thì chí ít những giải pháp xử lý mang tính “chữa cháy” áp dụng cho những khoản nợ xấu trước đây sẽ không được phép tiếp tục áp dụng cho những khoản nợ xấu tương tự phát sinh sau này. Nói cách khác, nợ xấu cũ vẫn có thể khác nợ xấu mới!

Hãy lấy ví dụ về chuyện cán bộ được NHNN phân công tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém trước đây, họ được ngầm định (và thực tế là vậy) miễn trách nhiệm nếu gây ra hậu quả (gồm nợ xấu) trong quá trình tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém. Nhưng dường như hiện nay đang có sự đồng thuận mới rằng sự miễn trách nhiệm này chỉ xảy ra với một số điều kiện. Nếu điều này được luật hóa và cán bộ biệt phái bởi NHNN vi phạm quy định này và gây ra nợ xấu thì (việc xử lý) khoản nợ xấu đó phải được gắn liền với trách nhiệm của cá nhân và cơ quan quản lý cá nhân đó, chứ không thể đổ lỗi chung chung hoặc cho NHTM yếu kém đang tái cơ cấu được.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).