Wednesday 19 July 2017

Giảm lãi suất quan trọng thế nào? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 19/7/2017)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/giam-lai-suat-quan-trong-the-nao/1204083/

Sáng 18/7, dẫn đầu đoàn kiểm tra Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng giao, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Tổ trưởng Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng yêu cầu NHNN hạ lãi suất. Theo Bộ trưởng Dũng: “Tính toán phác thảo, dư nợ tín dụng của Việt Nam khoảng trên 5 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì các DN dành được 50.000 tỷ đồng, cứ tính 5 đồng vốn 1 đồng lãi thì chúng ta đã có 10.000 tỷ đồng, riêng tiền thuế thu nhập DN đã có 2.000 tỷ đồng và giúp tăng 0,25% GDP. Hay nợ công trong nước hiện khoảng 1 triệu tỷ đồng, nếu giảm lãi suất 1% thì tiết kiệm từ ngân sách khoảng 10.000 tỷ đồng”. 


Nói thêm về tầm quan trọng của việc hạ lãi suất, Bộ trưởng Dũng cho biết nợ công hiện nay khoảng 1 triệu tỉ đồng. Theo Bộ trưởng thì nếu lãi suất cho vay giảm 1%/ năm thì "chúng ta tiết kiệm được cho ngân sách nhà nước 10.000 tỉ đồng", là một khoản bù đắp đầu tư phát triển rất tốt”. 
Những con số nêu trên dường như cho thấy dù chỉ giảm ở mức độ khiêm tốn là 0,5 đến 1 điểm phần trăm thì việc hạ lãi suất vẫn sẽ rất có ý nghĩa cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn một chút thì thấy có một số bất hợp lý trong những con số nếu trên. 
Thứ nhất, với dư nợ tín dụng của Việt Nam trên 5 triệu tỷ đồng thì đúng là nếu giảm lãi suất 1 điểm phần trăm tính trên 5 triệu tỷ đồng, sẽ giảm được 50.000 tỷ đồng tiền lãi nền kinh tế phải trả cho hệ thống ngân hàng thương mại hàng năm. Tuy nhiên, 5 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng này là con số cộng dồn dư nợ từ trước đến nay (và vẫn còn hiệu lực đến hiện tại). Và 5 triệu tỷ đồng này có nhiều kỳ hạn khác nhau, với nhiều mức lãi suất khác nhau, khó có thể cắt giảm theo kiểu “hồi tố” được, vì đã thể hiện và cam kết trong hợp đồng cho vay giữa ngân hàng với người vay. Nếu buộc ngân hàng phải tự nguyện cắt giảm theo kiểu hồi tố thì điều này có nghĩa là làm thiệt hại một cách bất công cho ngân hàng bởi họ cho vay với lãi suất cao thì cũng phải huy động với lãi suất cao. Vậy, 50.000 tỷ đồng mà doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng được hưởng lợi cũng chính là khoản thua lỗ mà các ngân hàng sẽ phải gánh chịu.
Chưa hết, lợi nhuận ngân hàng giảm sẽ dẫn đến hàng loạt hệ lụy lên tăng trưởng và ổn định vĩ mô như không có nguồn bổ sung, củng cố vốn an toàn tối thiểu nên làm tăng rủi ro đổ vỡ hệ thống; thiếu hụt nguồn vốn cho vay kết hợp với tỷ lệ an toàn vốn không được cải thiện sẽ làm cho tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế bị co hẹp lại; và phần trích nộp ngân sách dưới dạng thuế thu nhập doanh nghiệp và phân chia lợi nhuận cổ đông (với các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước) cũng bị suy giảm theo làm tăng thâm hụt ngân sách, giảm chi tiêu công và kích cầu, từ đó lại dẫn đến giảm tăng trưởng kinh tế…    


Giả sử việc cắt giảm lãi suất cho vay chỉ diễn ra với những khoản cho vay mới từ thời điểm này trở đi. Vì dư nợ cho vay mới chỉ là một phần của con số 5 triệu tỷ đồng trên (18%-20%, là tốc độ tăng trưởng tín dụng mục tiêu cho năm nay), con số “tiết kiệm” được, không phải trả lãi cho các ngân hàng cũng sẽ chỉ là một phần của con số 50.000 tỷ đồng nói trên (chính xác là 9-10.000 tỷ đồng), không lớn như tuyên bố. Đó là chưa kể việc “tiết kiệm” này cũng vẫn chính là phần lợi nhuận mà ngân hàng phải “cắt máu” cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, và cũng sẽ mang lại những hệ lụy cho tăng trưởng và ổn định như phân tích ở trên.
Thứ hai, giả sử cứ đầu tư 5 đồng thì thu được 1 đồng lãi, đúng như Bộ trưởng Dũng phát biểu thì từ 9-10.000 tỷ đồng “tiết kiệm” được như tính toán ở trên, “chúng ta” sẽ thu thêm được gần 2.000 tỷ đồng lãi. Trong số này, tiền thuế thu nhập doanh nghiệp thu được sẽ là 400 tỷ đồng (20% lợi nhuận), chứ không phải là 2.000 tỷ đồng như công bố của Bộ trưởng. Và xin nhắc lại là “chúng ta” thu thêm được 2.000 tỷ đồng tiền lãi và ngân sách thu thêm được 400 tỷ đồng thuế thu nhập nhưng thực chất những con số này sẽ bị ghi giảm trừ từ phần đóng góp của hệ thống ngân hàng thương mại do đã phải hy sinh lợi nhuận cho phần còn lại của nền kinh tế.


Thứ ba, Bộ trưởng Dũng nói 2.000 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp làm tăng 0,25% GDP. Nhưng lưu ý rằng GDP theo giá thực tế hiện là trên 5 triệu tỷ đồng. Con số 2.000 tỷ đồng này chỉ tương đương chưa đến 0,04% GDP mà thôi.
Thứ tư, về nợ công mà theo công bố trên là 1 triệu tỷ đồng. Cũng tương tự như đã phân tích, đây là dư nợ đến thời điểm hiện tại với kỳ hạn và lãi suất đã ấn định xong xuôi, không thể hồi tố được. Nên dù lãi suất huy động cho trái phiếu Chính phủ có giảm 1 điểm phần trăm thì không có nghĩa là ngân sách tiết kiệm được 10.000 tỷ đồng như trong lập luận của bộ trưởng. Có chăng, chỉ các khoản vay nợ công mới (kể cả để đảo nợ) từ nay trở đi mới được hưởng lãi suất thấp hơn này. Nhưng những khoản vay mới này cũng sẽ chỉ là một phần nhỏ của con số 1 triệu tỷ đồng nợ công hiện tại. Nói cách khác, giảm lãi suất 1 điểm phần trăm sẽ chỉ có tác dụng khiêm tốn hơn rất nhiều so với con số ước tính trên.


Và cũng không thể không nhắc lại một lần nữa rằng giảm được gánh nặng nợ công nhờ giảm lãi suất sẽ đi kèm với cái giá phải trả là phần nộp ngân sách từ hệ thống ngân hàng sẽ bị co hẹp lại tương ứng, chưa kể đến các hệ lụy đến tăng trưởng và ổn định vĩ mô như đã chỉ ra ở trên.
Tóm lại, việc cắt giảm lãi suất nếu không có giải pháp đi kèm để không làm thiệt hại đến doanh thu và lợi nhuận của hệ thống ngân hàng thì sẽ không những không có (mấy) tác dụng mà thậm chí còn làm tổn hại đến tăng trưởng và ổn định vĩ mô.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).