Nợ xấu được xác định
đến cuối tháng 12/2016 là khoảng 600 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,8% tổng dư nợ. Về
con số này, có đại biểu Quốc hội đã đặt vấn đề rằng “chúng
ta làm sao vận hành để 600.000 tỷ này quay lại để phục vụ cho tăng trưởng kinh
tế khi mà nguồn lực của chúng ta còn rất hạn chế. Với con số này chúng ta có thể
làm được 3 sân bay Long Thành mà Quốc hội chúng ta đang đưa ra bàn”.
Với quy
mô GDP theo giá danh nghĩa của Việt Nam hiện vào khoảng trên 5 triệu tỷ đồng,
nên quy mô nợ xấu tính theo GDP cũng vào khoảng 10-12%, một con số rất đáng kể.
Quả thật, nếu nền kinh tế Việt Nam được bổ sung thêm một nguồn vốn với quy mô
này thì tốc độ tăng trưởng Việt Nam đã khác trong suốt thời gian qua.
Vậy 600
nghìn tỷ đồng này đang nằm ở đâu, liệu có lấy lại/hồi phục được không?
Trước tiên, có thể khẳng
định rằng nói quy mô nợ xấu lên tới 600 nghìn tỷ hay 1 triệu tỷ đồng cũng không
có nghĩa là số tiền này đang “nằm chết” đâu đó trong cái “nấm mồ” được gọi là nợ
xấu nên phải tìm cách “khai quật” và đưa chúng trở lại lưu thông trong nền kinh
tế.
Cụ thể hơn, ví dụ
ngân hàng thương mại A cho doanh nghiệp B vay X đồng với tài sản thế chấp Y.
Sau một thời gian thì khoản vay X đồng này được đánh giá là nợ xấu nhưng ngân
hàng A chưa thanh lý tài sản Y được vì một số lý do, và bởi vậy nên khoản nợ xấu
X này cứ bị treo trên sổ sách của ngân hàng A.
Tuy vậy, điều này
không có nghĩa là nền kinh tế đã mất đi một khoản vốn tương đương với X đồng khi
khoản cho vay này được xác định là nợ xấu. Bởi doanh nghiệp B sau khi vay X đồng,
đã mang số vốn này chi tiêu, thanh toán và đầu tư đâu đó trong nền kinh tế. Nói
cách khác, số vốn X đồng này đã “hòa tan” vào trong nền kinh tế, dù trên danh
nghĩa doanh nghiệp B vẫn đang nợ ngân hàng A một khoản nợ (xấu) là X đồng với
tài sản thế chấp chưa thể thanh lý được.
Giả sử nhờ có nghị
quyết xử lý nợ xấu mới đây của Quốc hội, ngân hàng A xử lý được thành công tài
sản thế chấp của doanh nghiệp B và thu về được đúng số vốn đã cho vay ban đầu
là X đồng. Nhưng lúc này cũng không thể nói rằng nền kinh tế đã tiếp nhận thêm
một nguồn vốn mới trị giá X đồng được ngân hàng A rót thêm vào, thông qua một
khoản cho vay mới với một doanh nghiệp C nào đó.
Điều này là bởi số vốn
ngân hàng A nhận được từ xử lý tài sản thế chấp Y là số vốn rót ra bởi một cá
nhân/tổ chức nào đó đứng ra mua lại tài sản Y này. Cá nhân/tổ chức mua nợ xấu này
rút một khoản tiền gửi tại ngân hàng (tức rút khỏi nền kinh tế) trị giá X đồng
để mua tài sản thế chấp Y do ngân hàng A nắm giữ. Sau khi nhận được số tiền X
này, ngân hàng A cho doanh nghiệp C vay X đồng để rồi doanh nghiệp C lại đem X
đồng này chi tiêu, thanh toán và đầu tư ngược trở lại nền kinh tế. Cứ như vậy,
nên lượng vốn X đã luân chuyển từ tay này sang tay khác trong nền kinh tế mà
không mất đi đâu, nằm chết ở đâu cả.
Từ phân tích trên có
thể thấy rõ là dù nợ xấu có được xử lý sạch sẽ, rốt ráo và hệ thống ngân hàng
thu hồi đồng thời cả 600 nghìn tỷ đồng trị giá nợ xấu thì nền kinh tế vẫn chỉ
có từng đó số tiền/vốn như trước khi 600 nghìn tỷ đồng nợ xấu được xử lý. Do
đó, vốn thiếu thì vẫn cứ thiếu, và dù chỉ xây một góc của sân bay cũng sẽ phải
“giật gấu vá vai”, lấy chỗ nọ đập vào chỗ kia, chứ chẳng dám nói đến đủ vốn để
xây những 3 cái sân bay Long Thành như vị đại biểu Quốc hội trên so sánh.
Cũng liên quan đến
chuyện trên, một vấn đề khác được đặt ra là liệu có phải khi nợ xấu được xử lý
rốt ráo thì chắc chắn lãi suất cho vay sẽ hạ đi (vì ngân hàng không phải trích
lập dự phòng, và vì lợi nhuận của ngân hàng được đảm bảo nên không cần phải tính
lãi suất cho vay cao để bù đắp tổn thất do nợ xấu)?
Câu trả lời là... còn
tùy!
Đầu tiên là tùy vào mức
độ cạnh tranh cho vay trong hệ thống ngân hàng. Nếu các ngân hàng phải “sứt đầu
mẻ trán” để giành giật khách hàng thì việc xử lý nợ xấu và tài sản thế chấp sẽ
giúp ngân hàng có thêm sức lực để cắt giảm lãi suất cho vay nhằm chiến thắng
trong cuộc đua giành khách. Nhưng cũng lưu ý thêm là trong bối cảnh này thì dù
nợ xấu không được xử lý ổn thỏa, các ngân hàng vẫn phải đối mặt với áp lực giảm
lãi suất để trở nên cạnh tranh hơn so với đối thủ.
Ngược lại, nếu sự cạnh
tranh giữa các ngân hàng không đủ mạnh và/hoặc khách hàng đi vay phải “cạy cục”
ngân hàng để vay được vốn, thì lúc này các ngân hàng chẳng có lý do và động cơ
gì phải cắt giảm lãi suất. Thị trường lúc này là thị trường của các ngân hàng
chứ không phải khách hàng, nên, với nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận, các ngân
hàng sẽ tiếp tục giữ lãi suất cho vay ở mức cao, không có ý định làm “từ thiện”
cắt giảm lãi suất cho khách hàng, trừ khi họ bị buộc phải làm thế bởi sự can
thiệp của cơ quan quản lý hoặc bị áp đặt trần lãi suất cho vay.
Tiếp đó là tùy vào
thái độ của cơ quan quản lý, trong trường hợp này là Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Trước đây, để cứu vãn tình hình, NHNN đã phải chấp nhận một số biện pháp thỏa
hiệp để nợ xấu trong hệ thống theo báo cáo không trở nên quá lớn gây áp lực lên
sự ổn định hệ thống, hay để hệ thống ngân hàng có thêm thời gian và tiềm lực để
xử lý nợ xấu như giãn thời gian áp dụng các chuẩn mực an toàn cao hơn.
Nay, nếu nợ xấu được
xử lý triệt để đem lại cho ngân hàng một nguồn thu/nguồn lực mới, rất có thể
NHNN sẽ yêu cầu các ngân hàng phải thực thi sớm các chuẩn mực an toàn cao hơn,
ví dụ về vốn an toàn tối thiểu, về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, về hạn mức
tăng trưởng tín dụng, về tỷ lệ vốn được đầu tư vào bất động sản và những dự án
BOT v.v... Lúc đó, các ngân hàng buộc phải bù đắp cho phần chi phí tăng lên này
bằng việc duy trì lãi suất cho vay cao.
Có nghĩa là dù nợ xấu
được xử lý triệt để, lãi suất cho vay vẫn hoàn toàn có thể không hạ đi, nếu
không muốn nói là còn tăng lên!
No comments:
Post a Comment