Wednesday 30 August 2017

Tác động gì có thể xảy ra khi giãn lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn? (Bài đăng trên CafeF, 30/8/2017)

http://cafef.vn/tac-dong-gi-co-the-xay-ra-khi-gian-lo-trinh-giam-ty-le-su-dung-von-ngan-han-cho-vay-trung-dai-han-20170830162616053.chn

Ngân hàng nhà nước (NHNN) đang đưa ra lấy ý kiến góp ý cho Dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 36/2014/TT-NHNN (Sau đây gọi tắt là Dự thảo) quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Xoay quanh câu chuyện này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với TS. Phan Minh Ngọc, chuyên gia kinh tế tài chính.


PV: Thưa ông vì sao NHNN lại đưa Thông tư 36 ra sửa đổi khi chỉ còn 4 tháng nữa là áp dụng các quy định mới về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo lộ trình?
TS. Phan Minh Ngọc: Cần lưu ý rằng, Thông tư 36 đã được sửa đổi, bổ sung bằng Thông tư số 06/2016/TT-NHNN hồi tháng 6 năm ngoái. Theo Thông tư 06 từ ngày 1/1/2017 đến ngày 31/12/2017, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung hạn của các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng hợp tác xã được giảm xuống mức 50% và giảm tiếp xuống 40% từ ngày 1/1/2018. Tỷ lệ tương ứng của các tổ chức tín dụng (TCTD) phi ngân hàng là 90% trong năm 2017 và 80% kể từ đầu năm 2018.


Còn theo Dự thảo lần này, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chỉ giảm xuống còn 45% kể từ đầu năm 2018 và sẽ giảm tiếp xuống mức 40% kể từ đầu năm 2019. Các TCTD phi ngân hàng vẫn được giữ nguyên tỷ lệ này ở mức 90%.
Bên cạnh đó, Dự thảo nâng tỷ lệ tối đa mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn của các ngân hàng thương mại nhà nước lên 25% từ mức 15% như quy định hiện hành. Mức này của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được đề xuất nâng lên 35% từ 15%...


Bối cảnh cho những thay đổi trên, theo NHNN là Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 9/6/2107 của Chính phủ yêu cầu NHNN phối hợp chặt chẽ với một số bộ khác để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, phấn đấu tăng trưởng tín dụng năm 2017 vượt mức kế hoạch 18% và điều chỉnh hạn mức tín dụng cho vay trung dài hạn của các TCTD…


Có nhiều ý kiến đã phân tích về những nguyên nhân rồi dự đoán tác động của việc thay đổi. Còn ông đánh giá ra sao về sự thay đổi này, ai sẽ là những người được hưởng lợi nhiều nhất?
Theo ước tính của Công ty chứng khoán VCBS, tỷ lệ vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung và dài hạn của hệ thống hiện nay vào khoảng 45%. Nếu ước tính này là đúng thì đương nhiên các đối tượng hưởng lợi đầu tiên là các TCTD nói chung bởi họ sẽ không phải tăng ngay từ bây giờ các lãi suất tiết kiệm trung và dài hạn để huy động cho đủ lượng vốn trung và dài hạn cần thiết nhằm đưa tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của mình xuống còn 40% vào đầu năm sau như quy định trong Thông tư 06. Nói cách khác, tính từ thời điểm này trở đi TCTD sẽ có đến 2 năm 4 tháng để đạt được tỷ lệ 40% này thay vì chỉ còn 4 tháng nếu không sửa đổi Thông tư 06.


Do cơ cấu nguồn vốn không bị thay đổi một cách khá gấp gáp, đột ngột theo hướng tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn với lãi suất huy động cao hơn so với vốn ngắn hạn thì chi phí vốn của các TCTD nhìn chung sẽ không có biến động nhiều so với hiện tại. Đây là một tiền đề để mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục được duy trì ổn định hoặc giảm đi nếu các nguồn vốn cho vay ngắn hạn lãi suất thấp (vay liên ngân hàng, hoạt động bơm tiền của NHNN qua thị trường mở và tái chiết khấu) tiếp tục tăng lên theo hướng mở rộng cung tiền của NHNN.
Như vậy, đối tượng hưởng lợi tiếp theo là các cá nhân và doanh nghiệp vay vốn khi mặt bằng lãi suất cho vay ổn định hoặc có xu hướng giảm đi. Suy rộng ra, nền kinh tế sẽ có thêm kích thích để tăng trưởng nhanh hơn trong những quý sau (nếu NHNN tiếp tục đẩy mạnh cung tiền).


Việc giảm lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cũng có thêm một cái lợi khác là NHNN sẽ không phải tăng cung tiền quá mạnh để đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng như yêu cầu của Chính phủ. Nếu thực hiện đúng lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn trong khi phải cấp tập bơm tiền thì điều này không khác gì khi việc vừa tăng ga, vừa đạp phanh khi lái xe. Hậu quả của việc này sẽ làm nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng thấp so với yêu cầu trong khi lạm phát có nguy cơ bùng phát mạnh.
Bên cạnh đó, việc nâng tỷ lệ tối đa mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn gốc vốn ngắn hạn của các TCTD như trong Dự thảo sẽ giúp Chính phủ bán được nhiều trái phiếu hơn và dễ dàng hơn, có thể với lợi suất thấp hơn so với trường hợp không được nới lỏng. Như vậy, chính sách tài khóa sẽ nhận được thêm hậu thuẫn (một cách gián tiếp) bởi chính sách tiền tệ nới lỏng.


Không chính sách nào không mang tính hai mặt, vậy “mặt bên kia” của việc sửa đổi Thông tư 36 là gì thưa ông?
Đúng vậy, không có chính sách nào là không có tính 2 mặt. Điều này cũng đúng với chính sách giãn lộ trình như trong Dự thảo. Như tôi đã chỉ ra trước đây về khả năng Thông tư 36 và 06 sẽ tiếp tục bị sửa đổi, việc đặt ra những con số mục tiêu và lộ trình trong Thông tư 36, rồi Thông tư 06 và kể cả Dự thảo phần nhiều mang tính "đối phó", dễ bị “lung lạc” bởi, hoặc chạy theo thị trường. Với tính chất như vậy, thị trường sẽ rất dễ “nhờn” với các biện pháp chính sách can thiệp khác và sau này của NHNN.


Điều này được thể hiện rõ ở chỗ là dù chỉ còn 4 tháng nữa là sẽ đến thời điểm phải thực hiện giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn nhưng tỷ lệ này hiện vẫn còn quá cao (45%), khó có khả năng hiện thực hóa mục tiêu 40% nếu Thông tư 06 vẫn tiếp tục còn hiệu lực, không bị sửa đổi bởi Dự thảo. Nói cách khác, dường như các TCTD cũng đã đoán nhận được tình hình, và thấy được tính không nhất quán trong chính sách kèm với khả năng cao là NHNN sẽ phải sửa đổi Thông tư 36 thêm một lần nữa (bằng việc sửa đổi Thông tư 06) nên họ đã không tích cực, nỗ lực giảm tỷ lệ này theo đúng lộ trình.
Ngoài ra, việc tăng cường bơm tiền cho ngân sách gián tiếp thông qua nới lỏng tỷ lệ đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn của các TCTD vừa làm tăng áp lực lên lạm phát (vì chính sách tiền tệ lúc này còn phải cáng đáng thêm cả nhu cầu vay mượn tăng lên, với lợi suất thấp hơn, của ngân sách), đồng thời dễ làm tăng sự thụ động, ỷ lại của các TCTD vào việc mua trái phiếu Chính phủ thay cho việc tích cực và nỗ lực cho vay ra nền kinh tế thực để thúc đẩy tăng trưởng.


Vậy theo ông NHNN cần làm gì tiếp theo để giảm thiểu những tác động không mong muốn đó?
Cũng có thể NHNN sẽ biện minh cho sự thay đổi này với lý do phải thực hiện theo yêu cầu của Chính phủ. Như vậy, một mặt, Chính phủ cũng nên cân nhắc thế khó của NHNN để có những yêu cầu phù hợp hơn. Mặt khác, NHNN cần tiến hành những bước đi chính sách mang tính thận trọng, khả thi và thực tế hơn để giảm thiểu tính không nhất quán và chế tài yếu, thiếu tính dẫn dắt thị trường trong các chính sách của mình.


Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

Quản lý nợ công: Đầu mối không quan trọng bằng minh bạch (Bài đăng trên TBKTSG, 29/8/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/163909/Quan-ly-no-cong-Dau-moi-khong-quan-trong-bang-minh-bach.html


Theo dự luật Quản lý nợ công hiện tại thì sẽ có đến 3 cơ quan cùng tham gia quản lý nợ công là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Đây là điều mà nhiều người không đồng tình, vì cho rằng khi quản lý phân tán giữa nhiều đầu mối thì sẽ khó xác định được con số thực của nợ công. Việc có đến 3 đầu mối cùng quản lý nợ công như thế này cũng không phù hợp với yêu cầu của Bộ Chính trị là phải bảo đảm tập trung thống nhất trong quản lý nợ công nhằm sớm khắc phục tình trạng quản lý nợ công còn chồng chéo, chưa gắn trách nhiệm cân đối ngân sách, vay và trả nợ với phân bổ, sử dụng vốn. Việc quy về một đầu mối còn không những giảm được biên chế, thủ tục hành chính, phiền hà mà còn giúp cho đàm phán nợ công thuận lợi hơn.
Một số ý kiến còn cho rằng thông lệ trên thế giới là quy định rõ một đầu mối quản lý tập trung, thống nhất nguồn lực nợ công. Thậm chí, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân còn cho rằng việc một người đi đàm phán, một người phân bổ số nợ vay, một người đi trả nợ là bất hợp lý, và khẳng định: “chẳng quốc gia nào giống như chúng ta”.

Ngược lại, cũng có không ít ý kiến ủng hộ dự luật, và cho rằng quy định như dự luật sẽ không làm xáo trộn chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành. Ví dụ, NHNN đã và đang làm tốt vai trò chủ trì đàm phán với Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á nên sẽ là thuận lợi hơn nếu để NHNN tiếp tục chủ trì đàm phán, ký kết vay với các tổ chức này. Đồng thời, việc có 3 cơ quan cùng quản lý sẽ tạo ra cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực lẫn nhau, hạn chế độc quyền.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho biết: “Nếu soi chiếu kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là các quy định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hay WB thì cũng không có một mô hình mẫu nào về quản lý nợ công. Tùy theo thể chế, các quốc gia có thể giao một hoặc nhiều bộ, ngành khác nhau quản lý nợ công. Do đó việc tham khảo quốc tế là cần thiết nhưng cần có sự linh hoạt, không cứng nhắc”.

Không có mô hình mẫu trên thế giới
Trước tiên, cần tán đồng với ý kiến rằng không có một mô hình mẫu nào về quản lý nợ công trên thế giới, kể cả khi soi chiếu các quy định của IMF hay WB. Điều này có nghĩa là vẫn có nhiều nước đang có một cơ chế quản lý nợ công phân tán giống như Việt Nam.

Trong bản chỉ dẫn về quản lý nợ công (sau đây gọi là Bản chỉ dẫn), phiên bản sửa đổi năm 2014 được soạn thảo bởi IMF và WB (1) có nêu rõ rằng thực tế cho thấy có nhiều lựa chọn về đầu mối (cơ quan quản lý chức năng) trong việc phân bổ chức năng quản lý nợ công, gồm một hoặc nhiều hơn trong số những đầu mối sau: Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương (NHTW), hay một cơ quan quản lý nợ công (DMO) độc lập.
Một nghiên cứu của IMF về quản lý nợ công ở các nước thuộc nhóm OECD trong cuối thập kỷ 80 đến thập kỷ 90 cũng cho thấy các nước này mô hình thể chế về quản lý nợ công rất khác nhau. Trong khi một số nước thành lập cơ quan quản lý nợ công độc lập (SDMO) thì một số nước khác lại không thấy có nhu cầu tại sao phải tách rời các SDMO này với Bộ Tài chính. (2) 

Quan trọng là minh bạch, phối hợp và chịu trách nhiệm
Trở lại với hai luồng ý kiến ủng hộ và phản đối dự luật nêu trên, có thể thấy luồng ý kiến phản đối việc để cả 3 đầu mối cùng quản lý nợ công là chưa có cơ sở chắc chắn, ngoài chuyện nêu không chính xác về kinh nghiệm của thế giới. Sẽ là không có gì đảm bảo rằng việc tập trung về một mối sẽ tự khắc dẫn đến giảm biên chế, tăng hiệu quả. Bởi cũng từ kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam cho thấy việc sáp nhập, hợp nhất các cơ quan quản lý chỉ làm giảm số lượng đầu mối chứ thực ra không làm giảm được mấy nhân sự và vị trí (quản lý).

Việc cho rằng quy về một đầu mối sẽ tránh được tình trạng chồng chéo, chưa gắn trách nhiệm cân đối ngân sách, vay và trả nợ với phân bổ, sử dụng vốn… cũng không nhất thiết là đúng, vì ngay đến chính sách “một cửa” cũng còn lắm vấn đề để nói. Nếu trong bản thân đầu mối thống nhất này có một bộ máy phức tạp, nhập nhằng chức năng, nhiệm vụ thì rốt cuộc mọi thứ vẫn cứ rối tinh lên, vẫn kém hiệu quả, dễ lạm quyền.
Ngay cả về lợi ích đàm phán nợ công thuận lợi hơn khi tập trung về một đầu mối cũng không nhất thiết sẽ xảy ra nếu người đàm phán không phối hợp hữu hiệu với các cơ quan chức năng khác như NHNN và Bộ Tài chính để căn cứ vào tình hình và bối cảnh vĩ mô, chính sách tiền tệ, hối đoái… mà có chiến lược đàm phán phù hợp.

Cũng chính từ những cơ sở không chắc chắn nói trên, điều quan trọng rút ra được cho mô hình quản lý nợ công ở Việt Nam là các “từ khóa” sau: Phối hợp, minh bạch, và chịu trách nhiệm. Nói cách khác, phân tách thành 3 đầu mối hay hợp nhất thành một đầu mối duy nhất không quan trọng bằng việc cần thiết phải đảm bảo thực hiện tốt những yêu cầu này.
Về yêu cầu phối hợp tốt, Bản chỉ dẫn nêu rõ các cơ quan liên đới như DMO (cơ quan quản lý nợ công), Bộ Tài chính và NHTW phải cùng hiểu biết chung và chia sẻ về mục tiêu quản lý nợ công và các chính sách tài khóa, tiền tệ, do có sự liên kết chéo và phụ thuộc lẫn nhau trong các công cụ chính sách của các cơ quan này. Chẳng hạn, DMO và Bộ Tài chính cần phải chia sẻ thông tin về nhu cầu luồng tiền cho ngân sách hiện tại và tương lai; NHTW cần phải thông báo cho Bộ Tài chính về các tác động có thể có của mức nợ công lên việc đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Việc phối hợp này phải được đặt trong bối cảnh đảm bảo môi trường vĩ mô lành mạnh.

Cũng cần lưu ý rằng việc phối hợp này không có nghĩa là NHTW tạo điều kiện cung cấp tín dụng lãi suất thấp cho Chính phủ bằng cách thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng bất cẩn với lý do là hỗ trợ ngân sách, vì đây không phải là sứ mệnh của NHTW. Bởi vậy, chức năng và mục tiêu quản lý nợ công cần được tách bạch khỏi chức năng và mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Về yêu cầu minh bạch và gắn trách nhiệm, Bản chỉ dẫn nêu rằng cần phân bổ trách nhiệm một cách rõ ràng giữa Bộ Tài chính, NHTW, hay SDMO (cơ quan quản lý nợ công độc lập) trong công tác quản lý nợ công. Bên cạnh đó, các mục tiêu của quản lý nợ công cũng cần được quy định rõ ràng và được công bố minh bạch. Tương tự như vậy là các hoạt động quản lý nợ công, thông qua báo cáo thường niên và báo cáo định kỳ ra công chúng… Quan trọng không kém, các hoạt động quản lý nợ công, gồm cả quy trình quản lý rủi ro và hệ thống thông tin cần được kiểm toán hàng năm bởi tổ chức kiểm toán độc lập để đảm bảo trách nhiệm giải trình trong các hoạt động của này của cơ quan liên đới.

Tóm lại, Việt Nam vẫn có thể duy trì cơ chế 3 bên cùng quản lý nợ công như hiện tại, nhưng phải đảm bảo rằng không có sự thỏa hiệp hay xung đột về lợi ích và sứ mệnh, có sự gắn và giải trình trách nhiệm rõ ràng, minh bạch, và cùng phải hướng đến mục tiêu chung là duy trì môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh.
-----------
(1)   https://www.imf.org/en/Publications/Policy-Papers/Issues/2016/12/31/Revised-Guidelines-for-Public-Debt-Management-PP4855
(2)http://treasury.worldbank.org/bdm/pdf/6_Institutional_Arrangements_PDM_CurrieDethierTogo.pdf

Friday 25 August 2017

Chưa có cơ sở thuyết phục để tăng thuế giá trị gia tăng (Bài đăng trên TBKTSG Online, 25/8/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/164038/Chua-co-co-so-thuyet-phuc-de-tang-thue-gia-tri-gia-tang.html



Chưa có cơ sở thuyết phục để tăng thuế giá trị gia tăng
Phan Minh Ngọc


(TBKTSG Online) - Đề xuất nâng thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) từ 10% lên 12% là chưa có cơ sở thuyết phục như được chỉ ra trong bài dưới đây.
Bộ Tài chính đang đưa ra lấy ý kiến rộng rãi về dự án luật sửa đổi, bổ sung các luật thuế, trong đó có việc tăng thuế GTGT. Giải trình cho sự cần thiết của luật này, Bộ Tài chính đưa ra ba lý do, đó là: (1) Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện chính sách thuế nhằm mục tiêu cơ cấu lại nguồn thu ngân sách nhà nước, (2) Thực hiện mục tiêu cải cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp thông lệ quốc tế, và (3) Khắc phục những vướng mắc của các luật thuế hiện hành, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
Riêng với thuế GTGT, Bộ Tài chính nêu thêm rằng: "Mức thuế suất thông thường 10% tương đối thấp, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, khó đảm bảo an toàn tài chính quốc gia”, để rồi lấy đó làm lý do chính cho đề xuất nâng thuế suất thuế GTGT từ 10% lên 12%.
Tuy nhiên, ngoài những yếu tố không hợp lý đằng sau đề xuất nâng thuế suất thuế GTGT như đã được nhiều người chỉ ra, kể cả nếu chiếu theo ba lý do mà Bộ Tài chính lấy làm cơ sở cho sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các luật thuế như nêu ở trên thì vẫn có thể thấy rằng đề xuất nâng thuế suất thuế GTGT từ 10% lên 12% là chưa có cơ sở thuyết phục, như được chỉ ra dưới đây.
Cơ cấu lại nguồn thu không có nghĩa là tăng thuế
Cụ thể hơn, với lý do thứ nhất, cơ cấu lại nguồn thu ngân sách theo Nghị quyết số 07-NQ TW của Bộ Chính trị mà Bộ Tài chính trích dẫn có đề ra mục tiêu cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Các giải pháp thực hiện mục tiêu là tập trung cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, tăng tỷ trọng thu nội địa. Tuy nhiên các giải pháp này không có nghĩa là phải tăng thuế suất. Chẳng hạn, việc tăng thu từ thuế có thể đạt được thông qua tăng đối tượng chịu thuế và tăng cường các biện pháp chống trốn thuế, gian lận thuế.
Không có cái gọi là “thông lệ quốc tế”
Về lý do thứ hai, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp thông lệ quốc tế. Cần lưu ý rằng ngay ở các nước châu Âu có thuế suất thuế GTGT cao như Đức và Czech thì họ vẫn áp dụng các mức thuế suất GTGT khác nhau cho các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau.
Quan trọng hơn, lý do này cũng không có nghĩa là phải tăng thuế suất thuế GTGT, bởi ngay trong thống kê mà Bộ Tài chính đưa ra hoặc trích dẫn trong dự thảo vẫn có sự khác biệt rất lớn giữa các nước và khu vực để có thể nói thực ra là chẳng có cái gọi là “thông lệ quốc tế" nào, trừ một thực tế là có nhiều nước đang có thuế suất thuế GTGT cao hơn của Việt Nam.  Thực ra, thuế GTGT ở mỗi nước như thế nào là tùy vào hoàn cảnh cụ thể của nước đó, chứ chẳng có mô hình chung nào để áp dụng cho “phù hợp” cả!
Tăng thuế sẽ làm khó thêm cho doanh nghiệp
Đối với lý do thứ ba, “khắc phục những vướng mắc của các luật thuế hiện hành, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp”, thì sự tăng thuế GTGT là đi ngược lại tinh thần mà Bộ Tài chính nêu ra. Vì sự tăng thuế này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp khi người tiêu dùng buộc phải thu hẹp hành vi mua sắm, tiêu dùng để đương đầu với chi phí đắt đỏ hơn do tăng thuế.
“Khó đảm bảo an toàn tài chính quốc gia” là lý do na vời, chưa được kiếm chứng
Theo dự thảo nói trên, Bộ Tài chính cho rằng mức thuế suất 10% là “khó đảm bảo an toàn tài chính quốc gia” để có thêm căn cứ đề xuất tăng thuế GTGT. Tuy vậy, nếu muốn chứng minh mức thuế 10% này là thấp, chưa đủ để bảo đảm nguồn thu ngân sách thì Bộ Tài chính cần chứng minh thêm rằng việc tăng thuế GTGT lên, ví dụ 12%, sẽ không gây tác động tiêu cực đến thu ngân sách, dù vẫn biết rằng tăng thuế hầu như chắc chắn sẽ làm giảm tiêu dùng, giảm các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, và thậm chí còn làm giảm ngay cả số thuế GTGT có thể thu được do các hoạt động kinh tế bị tác động.
Nói cách khác, Bộ Tài chính cần phải đưa ra những tính toán khoa học cho thấy tác động của các kịch bản khác nhau về thuế GTGT lên nền kinh tế và thu ngân sách để cho thấy muốn tăng thu, giảm thâm hụt ngân sách thì chỉ còn cách tăng thuế.
Và lẽ ra Bộ cũng cần tính toán liệu việc tăng thuế có làm giảm tăng trưởng GDP, dẫn đến sự đánh đổi giữa “giải cứu” ngân sách với "hy sinh" tăng trưởng, vốn rốt cuộc lại làm giảm “an toàn tài chính quốc gia” nếu căn cứ vào tỷ lệ nợ công tính trên GDP sẽ tiếp tục tăng lên do GDP sẽ tăng chậm lại vì tăng thuế.
Về tư duy về quản trị tài chính quốc gia, để đảm bảo tài chính quốc gia được lành mạnh, thể hiện ở việc cải thiện không ngừng mức thâm hụt ngân sách tiến tới cân bằng và ít chịu tác động từ bên ngoài thì không chỉ có duy nhất một giải pháp là tăng thuế, phí. Các giải pháp hữu hiệu thường phải làm là cắt giảm chi tiêu, nâng cao hiệu quả chi tiêu, giảm thất thoát, lãng phí trong chi tiêu và đầu tư công.
Tóm lại, qua dự thảo, vẫn chưa thấy được một lý do thỏa đáng nào để giải thích cho sự cần thiết phải tăng thuế GTGT, dù là để tăng thu nhằm cứu nguy cho ngân sách (khi đó thì việc tăng thuế cũng phải xếp sau việc cắt giảm chi tiêu).

Wednesday 16 August 2017

Dự trữ ngoại hối: Kỷ lục nhưng đừng chủ quan! (Bài đăng trên CafeF, 16/8/2017)

http://cafef.vn/du-tru-ngoai-hoi-ky-luc-nhung-dung-chu-quan-20170816050108413.chn

Quả thật, nếu so với những năm trước thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm nay đã cao hơn rất nhiều, như được thể hiện ở đồ thị dưới đây. Cụ thể, vào năm 2012, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tụt xuống còn 25,4 tỷ USD. Con số này chỉ tăng mạnh vào năm 2014 lên mức 34,3 tỷ USD nhưng rồi lại giảm mạnh còn 28,4 tỷ năm 2015. Từ đó trở đi thì nó mới có xu hướng tăng ổn định như dự báo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đạt 36,7 tỷ năm 2016, 42,2 tỷ năm 2017 và 48,6 tỷ năm 2018.



Nguồn: IMF Country Report No. 17/190 (7/2017); Ghi chú: Số liệu từ năm 2016 là dự báo

Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm hơn là dự trữ ngoại hối trên quy ra tương đương với bao nhiêu tháng nhập khẩu. Đây là một chỉ tiêu phản ánh quy mô dự trữ ngoại hối của một quốc gia ở mức cao hay thấp, an toàn hay không an toàn.

Trong đồ thị trên, đường màu da cam cho biết dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn chưa vượt quá mức 2,5 tháng nhập khẩu trong suốt mấy năm qua và một số năm tới (theo IMF, phải đến năm 2020 thì mức này mới đạt 2,7 tháng). Mà theo quy ước quốc tế thì dự trữ ngoại hối của một quốc gia phải tương đương với ít nhất là 3 tháng nhập khẩu thì mới an toàn để chống đỡ với các cơn sốc về cầu ngoại tệ. Như vậy, mặc dù dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể từ năm 2016 để đạt những “kỷ lục” mới trong những năm tiếp theo, nhưng những “kỷ lục” này vẫn chưa đủ lớn theo tiêu chuẩn chung của thế giới.

Quan trọng không kém là tuy về con số tuyệt đối thì đúng là dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm 2017 là năm cao kỷ lục (42,2 tỷ USD) nhưng cần lưu ý là mức này chỉ tương đương với 2,3 tháng nhập khẩu của cùng năm, chỉ nhỉnh hơn một chút so với năm 2016 (2,2 tháng) và thậm chí còn thấp hơn cả năm 2014 (2,4 tháng).

Lý do của tình trạng trên là thực ra dự trữ ngoại hối của Việt Nam tuy có tăng lên nhưng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam còn tăng mạnh hơn, nên tỷ lệ giữa dự trữ ngoại hối và kim ngạch nhập khẩu hầu như không có biến chuyển nhiều. Hàm ý của điều này một lần nữa cho thấy rằng dự trữ ngoại hối – chiếc gối đỡ giảm sốc cho nền kinh tế Việt Nam khỏi những biến động bên ngoài – vẫn còn “mỏng”, chưa an toàn, chưa đủ dập tắt mọi cơn sóng trồi sụt trên thị trường ngoại hối cũng như sự ổn định của tỷ giá.

Do đó, chính sách tiền tệ và ngoại hối trong thời gian tới cần tránh sự chủ quan, đừng chỉ nhìn con số tuyệt đối đang ở mức cao kỷ lục, để có những bước đi thích hợp nhằm tiếp tục cải thiện dự trữ ngoại hối hiểu theo mức tương đối (quy theo tháng nhập khẩu của Việt Nam) và không tạo thêm áp lực cho tỷ giá nếu muốn duy trì sự ổn định của nó trong những tháng tới.

Tuesday 15 August 2017

Ứng xử với nạn “thích” tuyển lao động nước ngoài (Bài đăng trên TBKTSG, 15/8/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/163464/Ung-xu-voi-nan-thich-tuyen-lao-dong-nuoc-ngoai.html

Tỉnh Bình Thuận mới đây đã chấp thuận cho Công ty TNHH Vận hành kinh doanh Vĩnh Tân Điện lực Trung Quốc được tuyển 196 lao động nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sử dụng của Nhà máy Nhiện điện Vĩnh Tân 1 ở xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong.
Thông tin trên một lần nữa lại gây quan ngại trong dư luận bởi liên quan đến lao động Trung Quốc, mặc dù tin tức cho biết trước đó công ty này đã thông qua Trung tâm Dịch vụ việc làm của tỉnh đăng tuyển rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng trên phạm vi cả nước nhưng không tuyển được người nào nên buộc phải chuyển sang tuyển lao động nước ngoài. Cũng cần biết thêm là tiêu chuẩn tuyển dụng là tốt nghiệp đại học trở lên, thông thạo tiếng Trung, tiếng Anh.


Trước khi bàn vào chủ đề chính, xin nói chuyện ngoài lề một chút. Cách đây vài năm người viết có tham gia một chuyến đi thăm thực địa tại một nhà máy nhiệt điện phía Bắc được xây dựng, lắp đặt thiết bị và vận hành bởi nhà thầu Trung Quốc. Bước vào các phòng điều hành, dễ nhận thấy toàn bộ ê kíp điều hành là người Trung Quốc. Máy móc, thiết bị, hệ thống phần cứng và phần mềm điều hành đương nhiên là được ghi bằng tiếng Trung.
Khách quan mà nói, trong môi trường như vậy mà “lọt” vào đó một vài người Việt không nói, đọc và viết thạo được tiếng Trung thì quả là chuyện không tưởng, không chỉ vì họ sẽ không làm được (một cách hiệu quả) công việc, mà còn gây khó dễ, thiệt hại cho phía nhà điều hành, nhà máy, bởi không lẽ phải bố trí cho mỗi một vị trí làm việc của người Việt một người phiên dịch Trung - Việt hay sao? Đó là chưa kể việc truyền đạt qua phiên dịch sẽ dễ dẫn đến tình trạng “chữ tác đánh chữ tộ” để rồi chất lượng công việc bị ảnh hưởng, thậm chí gây đình trệ.


Từ chuyện nhỏ trên, quay trở lại với chủ đề, có thể thấy vấn đề đầu tiên nằm ở việc phía Việt Nam dùng nhà thầu Trung Quốc, thiết bị, tài liệu và phần mềm của Trung Quốc (vốn để dùng trong nội địa Trung Quốc) nên mới dẫn đến tình trạng phải tuyển lao động Trung Quốc. Giả sử nếu các thiết bị máy móc, tài liệu và phần mềm bằng tiếng Anh, tiếng Việt, và nếu nhà thầu Trung Quốc sẽ tiến hành đào tạo, chuyển giao vận hành cho lao động Việt Nam thì có lẽ sẽ không mấy khó khăn để tuyển được số nhân viên cần thiết cho công việc tại nhà máy nhiệt điện ở Vĩnh Tân. Tương tự như vậy, nếu Việt Nam không chọn các nhà thầu xây dựng Trung Quốc thì chắc cũng không dẫn đến tình trạng các công trường xây dựng này “thích” tuyển lao động Trung Quốc, ít nhất là bởi, nói một cách công bằng, giao tiếp với nhau giữa các nhân viên quản lý, điều hành (là người Trung Quốc, đương nhiên) với công nhân xây dựng bằng cùng một thứ tiếng, tiếng Trung, sẽ là thuận lợi hơn rất nhiều cho công việc.
Nhưng từ vấn đề trên không thể tùy tiện suy ra một cách dễ dãi rằng Việt Nam không nên, không cần tuyển dụng, sử dụng nhà thầu và thiết bị Trung Quốc nữa thì sẽ tránh được tình trạng này. Vì, cũng phải nói một cách công bằng rằng trong không ít trường hợp việc sử dụng các yếu tố Trung Quốc này là có những lý do chính đáng.


Vậy thì vấn đề tiếp theo là phải bàn đến biện pháp “sống chung với lũ”, nếu không còn lựa chọn nào khác ngoài nhà thầu và thiết bị Trung Quốc. Biện pháp căn bản nhất đương nhiên sẽ là trực tiếp và gián tiếp khuyến khích nhà tuyển dụng Trung Quốc (trong ví dụ trên là các nhà thầu, nhà điều hành) tự giác tuyển dụng ít lao động Trung Quốc và thay vào đó là lao động Việt Nam. Nói cách khác, phải làm cho nhà tuyển dụng tự giác, thấy rõ được rằng họ sẽ có lợi hơn, ít tốn kém hơn nếu thực sự họ tìm thấy và tuyển được lao động Việt Nam đáp ứng được điều kiện tuyển dụng đặt ra như với lao động Trung Quốc.
Trên thực tế, việc nhà tuyển dụng Trung Quốc có tạo cơ hội bình đẳng trong tuyển dụng lao động người Việt tại Việt Nam hay không đang là “vùng xám”, gây nghi ngờ, thắc mắc, lo ngại trong dư luận, vì cho đến nay ở không ít công trường, cơ sở công nghiệp đã có sự hiện diện của nhiều lao động Trung Quốc mà nhìn vào công việc họ đang làm thì khó có thể nói đó là lao động kỹ thuật (cao) mà lao động địa phương không đáp ứng được. Ngay chính từ thông báo tuyển dụng tại nhà máy điện Vĩnh Tân trên cũng làm người ta nghi ngờ thực tâm của nhà tuyển dụng, vì tại sao đòi hỏi không chỉ tốt nghiệp đại học trở lên, không những phải thông thạo tiếng Trung mà còn cả tiếng Anh nữa? Những người đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn này có lẽ không nhiều, và chắc cũng chẳng mặn mà với công việc tại nhà máy này. Quan trọng hơn, những lao động Trung Quốc được tuyển dụng bởi nhà máy này nay mai sẽ có mấy người tốt nghiệp đại học và thông thạo tiếng Anh?


Đến đây, sẽ là hữu ích nếu tham khảo kinh nghiệm của các nước phải đương đầu với vấn đề lao động nước ngoài. Trong số này phải kể đến Singapore với nhiều biện pháp hữu hiệu được đưa ra trong vòng mấy năm qua để hạn chế lao động tay nghề thấp hoặc lao động giản đơn từ nước ngoài tràn vào, gây nhiều hệ lụy xã hội. Tất nhiên, tiền đề tham khảo ở đây là không có chuyện “tiếp tay” cho nhà tuyển dụng Trung Quốc của cán bộ ở các cơ quan quản lý hữu trách địa phương, một khả năng khó có thể phủ nhận hoàn toàn trên thực tế ở Việt Nam.
Những biện pháp hạn chế lao động nước ngoài của Singapore bao gồm: Hạ thấp hạn mức (hay trần) số lượng lao động nước ngoài mà công ty tại Singapore được phép tuyển dụng trên tổng số lao động của công ty; Nâng mức thuế đánh lên việc tuyển dụng lao động nước ngoài không có kỹ năng hoặc kỹ năng thấp; Hạn chế số lượng giấp phép lao động cấp mới hay hạn chế việc gia hạn giấy phép lao động hiện thời đối với những công ty nào không chứng tỏ được rằng đã nỗ lực tuyển dụng, đào tạo và phát triển cơ hội nghề nghiệp cho lao động bản địa (các công ty này sẽ bị liệt vào danh sách đen của Bộ Lao động nước này, và sẽ bị cấm vĩnh viễn tuyển lao động nước ngoài nếu một thời gian sau đó vẫn không cải thiện được tình hình).      


Các công ty trước khi tuyển dụng lao động nước ngoài cũng bị yêu cầu phải đăng quảng cáo việc làm cùng với mức lương dự kiến lên trang web quốc gia về việc làm tối thiểu trong 14 ngày để qua đó đánh giá được khả năng đáp ứng và mức độ hưởng ứng của lao động bản địa. Mức lương tối thiểu để lao động nước ngoài được cấp phép làm việc tại Singapore cũng được nâng lên đáng kể, làm tốn kém thêm cho các công ty tuyển dụng nếu họ vẫn cứ “thích” lao động nước ngoài.
Quan trọng không kém, để giảm thiểu khả năng “lách luật” của các công ty, Chính phủ Singapore tăng cường thanh tra, hậu kiểm việc tuyển dụng lao động nước ngoài và tăng nặng hình phạt với các công ty vi phạm. Nếu là trong ví dụ trên ở Việt Nam, việc thanh tra, hậu kiểm có thể sẽ tập trung vào yếu tố như trình độ ngoại ngữ và mức lương có đúng như đã quảng cáo trên mạng việc làm quốc gia hay không, có thật là không có lao động bản địa nào đáp ứng được hay quan tâm đến công việc này không…


Tóm lại, trong khi Việt Nam vẫn phải chấp nhận mở cửa cho lao động nước ngoài, gồm cả lao động Trung Quốc trong thời hội nhập, chứ không thể ngăn chặn với những lý do không mấy hợp pháp, chính đáng như họ sẽ lấy vợ Việt Nam, sinh con đẻ cái rồi lập ra “phố Tầu” ở Việt Nam…, điều mà Việt Nam cần và có thể làm được là ban hành và thực thi nghiêm các chính sách quản lý việc tuyển dụng lao động nước ngoài theo hướng đảm bảo ưu tiên cơ hội nghề nghiệp cho lao động Việt Nam theo kinh nghiệm quốc tế. Song song với đó, chất lượng thực thi và giám sát thực thi pháp luật của các cơ quan hữu trách địa phương cũng cần phải được đảm bảo để không dẫn đến tình trạng thỏa hiệp với nhà tuyển dụng nước ngoài gây phương hại đến lợi ích quốc gia.

Tuesday 8 August 2017

Những bất cập có thể thấy trước (Bài đăng trên TBKTSG, 8/8/2017, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

http://www.thesaigontimes.vn/163206/Nhung-bat-cap-co-the-thay-truoc.html

Mới đây Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam (AVR) đã đề xuất Chính phủ thành lập một tập đoàn bán lẻ trên cơ sở “bắt tay” của bốn đại gia hàng đầu trong các nhà bán lẻ hiện nay, gồm Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại Sài Gòn (Saigon Co.op), Tập đoàn Phú Thái (PhuThai Group), Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (Satra) và Tổng Công ty Thương mại Hà Nội (Hapro). (1)


Đã từng thất bại


Theo AVR, trước đây Chính phủ từng rất ủng hộ, kỳ vọng mô hình trên sẽ hỗ trợ rất nhiều cho thị trường bán lẻ, tuy nhiên mô hình đó đã thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là không tiếp cận được mặt bằng tại các tỉnh muốn phát triển.


Tuy AVR không nói rõ mô hình thất bại là mô hình nào nhưng đó có thể là mô hình Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (VDA) – một sản phẩm được cho ra đời từ năm 2007 bởi sự “bắt tay” giữa chính bốn đại gia nêu trên. Đại diện VDA cho biết, (theo định hướng) VDA sẽ trở thành công ty mẹ và đảm nhận những việc mà một doanh nghiệp đơn lẻ không thể làm được. Việc tập hợp lại cơ sở vật chất, hệ thống mặt bằng, vốn, kinh nghiệm, thị trường, hàng hóa… của bốn đại gia trên sẽ rất lớn. Khi VDA thành công thì các nhà đầu tư nước ngoài phải cân nhắc khi muốn thâu tóm hệ thống phân phối, logistic tại Việt Nam.


Phân trần cho sự thất bại của mô hình VDA, đại diện công ty này đổ lỗi cho cơ chế, chính sách không đồng bộ và từ chính sách đến thực tiễn còn một khoảng cách xa. Cụ thể, về chính sách đất đai, một số địa phương sẵn sàng ủng hộ mặt bằng, một số địa phương thì không. Đồng thời, chủ trương thoái vốn của Nhà nước đã buộc Satra và Hapro phải thoái vốn khỏi VDA, trong khi hai thành viên còn lại thì không đủ tiềm lực.


Hình dong của mô hình “bắt tay” kiểu mới


Trong khi không thấy AVR nói gì thêm về mô hình mới sẽ cụ thể là như thế nào, đại diện VDA lại cho biết họ đang kêu gọi thành lập một tập đoàn bán lẻ kiểu mới với nhiều điểm khác với mô hình cũ. Ví dụ, bất cứ thành phần nào cũng có thể tham gia mô hình này. Đặc biệt là không thực hiện theo cơ chế đồng thuận như mô hình cũ nữa - mỗi thành viên góp vốn 25% - mà ai bỏ vốn vào nhiều sẽ điều hành.


Bên cạnh đó, tập đoàn bán lẻ mới cũng có ý định thành lập hệ thống siêu thị nông nghiệp. Nông dân khi vào siêu thị này sẽ mua được tất cả từ con giống, phân bón đến thức ăn, máy móc… đúng giá, không sợ mua hàng giả.


Những bất cập


Có thể thấy chủ trương thành lập một mô hình “bắt tay” kiểu mới như nêu ở trên vẫn chủ yếu nhằm mục đích thành lập cho được một tập đoàn có quy mô lớn tận dụng lợi thế thuộc tốp đầu về doanh thu của cả bốn thành viên trên. Tuy nhiên, sự cùng bỏ vốn bởi các thành viên, bất kể tỷ lệ sở hữu bao nhiêu, sẽ luôn chỉ cho ra đời một công ty con có quy mô nhỏ hơn quy mô của các công ty thành viên này cộng lại. Hơn nữa, tùy thuộc vào mức độ có thể đóng góp vốn của các công ty thành viên, bất chấp quy mô lớn, dẫu đầu thị trường của chúng, quy mô của công ty con của chúng hoàn toàn có thể rất khiêm tốn.


Cụ thể hơn, mặc dù quy mô doanh thu hợp nhất của bốn đại gia nói trên được cho là lên tới 4-5 tỷ đô la Mỹ nhưng nếu mỗi đại gia trong số này chỉ có thể huy động và góp được trung bình là 100 triệu đô la thì quy mô vốn của “tập đoàn” mới cũng chỉ là 400 triệu đô la mà thôi, có khi chỉ tương đương hoặc nhỉnh hơn quy mô của một trong bốn thành viên này, tức là còn lâu mới đủ sức dẫn dắt thị trường và làm e ngại các đại gia bán lẻ nước ngoài đang nhòm ngó, thôn tính thị trường bán lẻ Việt Nam như ý đồ của AVR và VDA.


Đến đây, một vấn đề nảy sinh khác là dù có quy mô nhỏ hay lớn nhưng do vì hoạt động trong cùng lĩnh vực, thị trường, và địa bàn nên “tập đoàn” bán lẻ mới này sẽ tự nhiên trở thành một đối thủ cạnh tranh mới, quay trở lại đối đầu trực tiếp với các “đấng sinh thành” ra nó. Điều này có nghĩa là bên cạnh nỗi chật vật phải đối phó với các đối thủ nội và ngoại hiện có, bốn đại gia trên lại còn thêm vất vả đối mặt với một đối thủ mới mà rất có thể là ghê gớm vì nó được thừa hưởng tất cả những yếu tố lợi thế được “di truyền” từ các doanh nghiệp bố mẹ. Tính bất trắc và xung đột lợi ích như thế này đương nhiên sẽ là điều không được bốn đại gia bán lẻ hoan nghênh nếu họ nhìn ra, thấy trước được vấn đề.


Giải pháp ổn thỏa duy nhất cho những vấn đề trên là bốn đại gia trên tự nguyện sáp nhập, hợp nhất với nhau tạo ra một “đại tập đoàn” bán lẻ mới hầu như không có đối thủ trong nước, và tha hồ rảnh tay đối phó với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Nhưng giải pháp này chắc chắn là bất khả thi không chỉ vì khó có thể tìm tiếng nói chung giữa cả bốn bên và các cổ đông của họ trong vấn đề này, mà còn bởi luật pháp sẽ không cho phép sự hình thành của một tổ chức như vậy khi dẫn đến khả năng thâu tóm, lũng đoạn thị trường, hạn chế và triệt tiêu cạnh tranh.


Ngay cả với dự định tốt đẹp về thành lập siêu thị nông nghiệp mà đại diện VDA nêu ra cũng không có gì đảm bảo là sẽ xảy ra đúng như ý đồ, như tuyên bố. Với kiểu “một mình một chợ” nhờ quy mô lớn (nếu đúng như kế hoạch), đánh bại các doanh nghiệp phân phối nhỏ lẻ hơn trong ngành thì điều chắc chắn là giá bán trong siêu thị này sẽ là “đúng giá”, nhưng mà là giá của họ niêm yết, chứ không phải là giá trên thị trường khi có sự cạnh tranh giữa nhiều nhà cung cấp, phân phối! Và trong trường hợp này thì lại càng cần có sự tham gia của các nhà bán lẻ, phân phối ngoại để làm đối trọng với vị thế lũng đoạn thị trường của “tập đoàn” mới này.


Tóm lại, đề xuất các đại gia bán lẻ nội địa bắt tay với nhau để cho ra đời một “tập đoàn” bán lẻ quy mô lớn, đặc biệt là khi lôi kéo theo sự can thiệp của nhà nước, không chỉ tự thân là điều bất khả thi, thậm chí gây tác dụng ngược, mà còn không phải là giải pháp đối phó với sự cạnh tranh từ các nhà bán lẻ, phân phối nước ngoài.


(1)   http://cafef.vn/bon-dai-gia-viet-bat-tay-dau-voi-doanh-nghiep-ngoai-20170721071906953.chn

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).