Friday 22 September 2017

Xếp hạng tổ chức tín dụng để làm gì? (Bài đăng trên TBKTSG, 22/9/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/164794/Xep-hang-to-chuc-tin-dung-de-lam-gi.html


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Thông tư quy định về xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (gọi tắt là TCTD) để thay thế Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ban hành quy định xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM).
Xây dựng thông tư về xếp hạng TCTD là cần thiết
Theo NHNN, việc ban hành thông tư mới là để điều chỉnh những quy định của NHNN ban hành năm 2007 và 2008 (Quyết định 07/2007 và Quyết định 06/2008) về phân loại các TCTD vốn đã “không còn phù hợp” với các quy định pháp luật ban hành sau này, gồm Luật NHNN năm 2010 và Luật các TCTD năm 2010, và các thông tư liên quan của NHNN trong các năm 2013, 2014 và 2016.

Một trong những điểm “không còn phù hợp” được NHNN chỉ ra là đơn vị thực hiện xếp hạng, trước đây, theo Quyết định 06 và 07, là chính các TCTD tự đánh giá rồi gửi NHNN để NHNN xem xét và phê duyệt, trong khi đây là trách nhiệm của NHNN theo các luật sau này. Các quy định trước đây cũng chỉ mới có phạm vi điều chỉnh với NHTM và Quỹ Tín dụng nhân dân mà không bao gồm các loại hình khác gồm ngân hàng hợp tác xã, tổ chức tín dụng phi ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Như vậy, điều có thể thấy trước hết là sự chậm trễ của NHNN trong việc sửa đổi các quy định về phân loại TCTD cho phù hợp với các quy định pháp luật sau này. Nói cách khác, sự phân loại của NHNN với các TCTD kể từ năm 2010 đến nay có thể nói là đã... phạm luật. Cho nên, dù là muộn, thì việc ban hành thông tư mới để sửa đổi những bất cập pháp lý là cần thiết và không thể trì hoãn nữa.

Điểm đáng chú ý khác là quy định về việc thông báo kết quả xếp hạng. Dự thảo thông tư không quy định NHNN phải công bố kết quả xếp hạng các TCTD trên trang web của NHNN, mà NHNN chỉ thông báo nó cho từng TCTD. Đây là một thay đổi lớn so với quy định trước đây, bởi Quyết định 06 quy định NHNN công bố kết quả xếp loại trên trang web của mình. Sự thay đổi này là do, theo giải thích của NHNN, “tính chất nhạy cảm” của việc công bố và “chất lượng của việc xếp loại cũng chưa được bảo đảm chính xác”. Cũng vì thế nên NHNN chưa bao giờ thực hiện việc công bố kết quả xếp loại trên trang web của mình theo quy định. Lý do khác nữa là, theo NHNN, họ tham khảo Ngân hàng Thế giới (WB) và Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và thấy rằng chưa có nước nào công bố kết quả xếp hạng các TCTD và việc công bố này “có tính nhạy cảm cao”.
Những hệ lụy nếu không công bố kết quả...

Việc NHNN lấy lý do “nhạy cảm”, “chất lượng chưa bảo đảm” và chưa có tiền lệ trên thế giới để bỏ luôn quy định công bố xếp hạng các TCTD trong dự thảo thông tư nói trên nghe thoáng qua thì có vẻ hợp lý. Nhưng nếu suy xét kỹ hơn thì việc không công bố này vừa không có cơ sở, vừa sẽ gây ra một số vấn đề và hệ lụy lớn.
Thứ nhất, việc đánh giá, phân loại và công bố thông tin về tình hình hoạt động và sức khỏe của các NHTM không phải là không có, hoặc hiếm hoi trên thế giới. Ví dụ, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) vẫn phối hợp với các cơ quan giám sát của các quốc gia thành viên định kỳ và bất thường tiến hành đánh giá sức khỏe của các ngân hàng mà ECB trực tiếp giám sát(1). Kết quả đánh giá được công bố, dù chứa đựng những thông tin rất “nhạy cảm”. Bởi, một trong những mục đích của việc đánh giá và công bố này là để, theo giải thích của ECB, tăng cường chất lượng thông tin hiện có về tình hình của các ngân hàng.

Nói cách khác, việc đánh giá, xếp hạng các TCTD chính là để đáp ứng yêu cầu xác đáng của tất cả các bên có liên quan, từ dân chúng đến Chính phủ và nhà đầu tư trong, ngoài nước về thông tin minh bạch liên quan đến tình hình của các TCTD mà chỉ có thể có được (một cách tương đối chính xác) từ các cơ quan chức năng như NHNN. Thêm nữa, từ ví dụ này cho thấy thông tin càng “nhạy cảm” thì càng cần có sự thanh tra, giám sát, đánh giá và công bố của cơ quan chức năng như NHNN, chứ hoàn toàn không có, không thể có cái vùng cấm nào gọi là “nhạy cảm” để mà thanh tra, đánh giá xong rồi “cất tủ”, chính xác hơn là chỉ thông báo cho các TCTD về thứ hạng của họ.
Thứ hai, nếu sau khi đánh giá, xếp hạng xong mà NHNN vẫn cứ “cất tủ” các thông tin này thì sẽ dẫn đến tình trạng gọi là thông tin bất đối xứng, tức là chỉ có một số người, nhờ cách nào đó, mới biết được các thông tin này. Tình trạng thông tin bất đối xứng sẽ làm lợi cho những người biết thông tin trong khi làm hại toàn bộ những người có liên quan khác. Thử tưởng tượng nhà đầu tư nhờ biết được thông tin ngân hàng X bị NHNN xếp loại yếu nên âm thầm bán ra cổ phiếu ngân hàng này, trong khi những nhà đầu tư khác vẫn vô tư ôm giữ vì tin tưởng nó đang hoạt động lành mạnh, bình thường. Tình trạng tù mù thông tin như thế này cần tuyệt đối không để xảy ra trong việc làm chính sách. Vì nếu thấy không an tâm với khả năng có thể xảy ra xáo động mạnh trên thị trường khi công bố xếp hạng các TCTD thì tốt nhất là NHNN không tiến hành đánh giá và xếp hạng các TCTD nữa. Và điều này sẽ dẫn đến vấn đề khác.

Thứ ba, nếu đánh giá và xếp hạng xong mà không công bố thì NHNN cần phải trả lời thỏa đáng câu hỏi, vậy rốt cuộc đánh giá và xếp hạng để nhằm mục đích gì, và phục vụ ai?

Trong văn bản thuyết minh cho dự thảo thông tư này của mình cũng như trong bản thân dự thảo thông tư, NHNN không đưa ra bất cứ mục đích nào mà việc đánh giá, xếp loại này nhắm đến, ngoài việc trích dẫn Luật các TCTD về nhiệm vụ của NHNN hàng năm phải thực hiện xếp hạng các TCTD để phục vụ công tác thanh tra, giám sát các TCTD.
Cứ giả sử rằng mục đích của việc xếp hạng là để phục vụ công tác thanh tra, giám sát các TCTD. Nhưng nếu vậy thì lại hơi “ngược đời”, vì có thanh tra, giám sát thì mới ra được bảng xếp hạng!

Và cứ giả sử là việc xếp hạng để phục vụ mục đích cho từng TCTD biết được thứ hạng của mình thì điều này là không cần thiết. Bản thân TCTD phải biết là họ đang trong tình trạng như thế nào, căn cứ vào các tiêu chuẩn hoạt động mà NHNN ban hành. Nếu cho rằng nhờ biết được xếp hạng của mình mà các TCTD biết mình đang ở đâu trong ngành, và có giải pháp, chiến lược phù hợp thì cũng không đúng nốt. Ít nhất là vì tuy họ biết được thứ hạng của mình nhưng không biết được thứ hạng của đối thủ và của những TCTD khác!
Còn nếu coi việc xếp hạng là một cảnh báo cho những TCTD yếu, kém thì điều này là thừa vì, như đã nói, kết quả xếp hạng chỉ có được sau khi thanh tra, giám sát TCTD. Khi phát hiện được TCTD yếu, kém theo tiêu chuẩn NHNN đặt ra thì họ có thể cảnh báo, yêu cầu trực tiếp các TCTD này khắc phục, sửa chữa.

Tóm lại, nếu không (muốn) công bố bảng xếp hạng các TCTD thì NHNN không cần phải tiến hành việc xếp hạng. Nếu cho rằng không tiến hành việc xếp hạng thì sẽ phạm luật (Luật các TCTD) thì NHNN cần phải bổ sung vào dự thảo thông tư quy định NHNN công bố kết quả xếp hạng, để tránh gây ra các vấn đề và hệ lụy nêu trên.

(1) https://www.bankingsupervision.europa.eu/banking/comprehensive/html/index.en.html


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).