Tin tức mới đây cho thấy Chính phủ giao Bộ Công
Thương phối hợp với các bộ khác xem xét nội dung báo cáo và kiến nghị của tập
đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án nâng cấp, mở
rộng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất do Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) quản lý,
vận hành.
Theo kiến nghị của PVN, dự án này cần khoản vay lên tới 1,26
tỉ đô la Mỹ và cần được Chính phủ bảo lãnh để tiếp cận được nguồn vốn vay nước
ngoài và vay thương mại. Ngoài ra, một điểm đáng chú ý khác là trong tờ trình
BSR gửi Bộ Công Thương mấy tháng trước, BSR cho biết, số tiền vay 1,26 tỉ đô la
Mỹ này là “phù hợp với quyết định phê duyệt của Thủ tướng”(1). Mặt khác, BSR
cũng tiết lộ thêm rằng “hiện nay công ty không bị áp lực về nguồn vay cho dự
án, song vẫn cân nhắc để có được nguồn vốn vay lãi suất thấp và thời gian vay
dài hạn”.
Căn cứ vào nội dung và cách đặt vấn đề của BSR và PVN, cũng
như thực tiễn làm chính sách ở Việt Nam, ít có khả năng Chính phủ đã cam kết
bảo lãnh vay vốn (vô điều kiện) cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Nhưng, ngược
lại, chuyện bảo lãnh cũng không phải là chuyện không thể xảy ra, nếu dự án này
đáp ứng được một số điều kiện nào đó.
Trên nguyên tắc, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất thuộc sở hữu 100%
của Nhà nước, một nguồn vốn khổng lồ đã tiêu tốn vào đây nên Chính phủ không
thể “nhắm mắt làm ngơ”, để mặc Nhà máy Lọc dầu Dung Quất xoay xở với các khó
khăn. Do vậy, cũng là hợp lý nếu Chính phủ xem xét chuyện bảo lãnh khi dự án
này đáp ứng được một số điều kiện nhất định, chứ cũng không nên từ chối ngay
với lý do, ví dụ, là Chính phủ đã hạn chế bảo lãnh nhằm hạn chế gánh nặng cho
ngân sách như dư luận chỉ ra.
Và cũng cần nói thêm một chút về chủ trương hạn chế bảo lãnh
này. Cụ thể, chỉ đạo của Thủ tướng là từ năm 2017 tạm dừng phê duyệt chủ trương
cấp bảo lãnh cho các dự án mới(2). Trong khi đó, dự án nâng cấp, mở rộng Nhà
máy Lọc dầu Dung Quất đã tồn tại từ nhiều năm nay, nên có thể nói là nó nằm
ngoài phạm vi của chủ trương hạn chế cấp bảo lãnh.
Điều kiện để Chính phủ bảo lãnh vay vốn duy nhất đáng nói ở
đây là khả năng tồn tại và cạnh tranh của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất sau khi BSR
rót thêm vào nó một số tiền lớn nữa, trong đó có 1,26 tỉ đô la Mỹ vay với sự
bảo lãnh của Chính phủ. Nói cách khác, BSR cần đảm bảo rằng số tiền đi vay này
và những khoản vay trước đó chắc chắn sẽ trả lại được bằng nguồn trích từ lợi
nhuận trong tương lai của bản thân Nhà máy Lọc dầu Dung Quất (chứ không phải
bằng việc, ví dụ, tiếp tục vay để đảo nợ), tránh cho Chính phủ phải lãnh trách
nhiệm trả nợ thay sau này, và cũng đồng thời tránh việc tiếp tục “ném tiền qua
cửa sổ” nếu thật sự Nhà máy Lọc dầu Dung Quất khó có khả năng tồn tại mà không
có sự tiếp tục hậu thuẫn về tài chính và chính sách của Chính phủ.
Nhìn chung, khả năng tự đứng được trên đôi chân của Nhà máy
Lọc dầu Dung Quất là điều bất trắc, tuy vẫn có thể xảy ra nhưng lại kèm theo
điều kiện mà BSR và PVN đặt ngược lại cho Chính phủ là “ban hành cơ chế ưu đãi
bổ sung cho dự án nâng cấp”, đặc biệt là cơ chế ưu đãi về thuế đối với sản phẩm
xăng dầu của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất(3). Điều này có nghĩa là nếu không có
những ưu đãi gồm thuế và bảo lãnh chính phủ (để vay vốn lãi suất thấp nhằm hạ
giá thành sản phẩm) thì sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất sau khi nâng cấp
và mở rộng vẫn tiếp tục không thể cạnh tranh được với sản phẩm tương tự nhập
khẩu. Thêm nữa, từ năm 2024, thuế nhập khẩu xăng dầu vào Việt Nam sẽ về 0% theo
cam kết trong các hiệp định thương mại tự do. Lúc đó, sản phẩm của Nhà máy Lọc
dầu Dung Quất càng trở nên kém cạnh tranh hơn, thậm chí có khi Chính phủ phải
bù lỗ nếu muốn nó tiếp tục hoạt động.
Cũng không nên quá lạc quan với khả năng cải thiện tính cạnh
tranh sau khi Nhà máy Lọc dầu Dung Quất được nâng cấp và mở rộng. Bởi, lúc đó
nhà máy sẽ phụ thuộc phần lớn vào dầu thô nhập khẩu do nguồn dầu thô cung cấp
trong nước suy giảm và có giá cao. Sau khi nâng cấp và mở rộng, Nhà máy Lọc dầu
Dung Quất gần như bắt đầu lại từ đầu, khác nhiều so với Nhà máy Lọc dầu Dung
Quất trước khi nâng cấp. Vì vậy, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất mới sẽ không có mấy
ưu thế so với những nhà máy lọc dầu khác hiện có và sắp ra đời trong khu vực và
trên thế giới, từ nguyên liệu đầu vào, công nghệ, kinh nghiệm đến giá thành
(gồm khấu hao tài sản).
Như vậy, nếu Chính phủ muốn bảo lãnh vay vốn cho Nhà máy Lọc
dầu Dung Quất, cần nhận thức được khả năng cao “đâm lao phải theo lao”, không
chỉ trả nợ hộ mà còn phải tiếp tục duy trì hoặc tăng thêm các ưu đãi, trợ cấp
để nó tồn tại. Và bài toán kinh tế lúc này sẽ là cân đo, so sánh tổng thiệt hại
cho ngân sách trong hai trường hợp xấu nhất: (1) nếu Chính phủ không bảo lãnh,
để Nhà máy Lọc dầu Dung Quất và PVN tự xoay xở và kết cục cuối cùng có thể là
phải bán (cổ phần hóa) Nhà máy Lọc dầu Dung Quất với giá rẻ cho nhà đầu tư tư
nhân trong, ngoài nước, và (2) nếu Chính phủ bảo lãnh vay vốn (và trả nợ thay)
đồng thời tiếp tục cung cấp các ưu đãi, thậm chí bù lỗ để Nhà máy Lọc dầu Dung
Quất tiếp tục tồn tại. Lời giải bài toán này sẽ là căn cứ để Chính phủ quyết
định sẽ làm gì với Nhà máy Lọc dầu Dung Quất.
Cần nói thêm là Chính phủ nên thuê một tổ chức đánh giá độc
lập về hiệu quả kinh tế của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất với nhiều giả định khắt
khe hơn. Không nên dựa vào tính toán của bản thân Nhà máy Lọc dầu Dung Quất hay
PVN vì thực tế cho thấy hiệu quả của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất thấp hơn so với
tính toán khi lập dự án, và vì xu hướng chung của chủ đầu tư là thường phóng
đại các lợi thế của dự án.
(1)
http://s.cafef.vn/bsr-229344/loc-dau-dung-quat-trinh-du-an-nang-cap-mo-rong-nha-may.chn
(2) http://vneconomy.vn/thoi-su/chinh-phu-tam-dung-bao-lanh-cac-du-an-moi-tu-2017-20160827062847477.htm
(3)
http://vneconomy.vn/thoi-su/dau-hoi-hieu-qua-18-ty-usd-mo-rong-nha-may-loc-dau-dung-quat-20170920100142621.htm
No comments:
Post a Comment