Friday 13 October 2017

Thương mại Việt Nam: Sự lên ngôi của Hàn Quốc (Bài đăng trên TBKTSG, 13/10/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/165471/Thuong-mai-Viet-Nam-su-len-ngoi-cua-Han-Quoc.html

Theo số liệu cập nhật tình hình xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải Quan đến tháng 9 vừa qua (Bảng 1), nhập siêu từ Hàn Quốc tiếp tục gia tăng mạnh hơn trong năm nay.
Thay đổi về kim ngạch


Bảng 1 cho thấy tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam với thế giới nói chung và với 3 nước đối tác chính ở châu Á là Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc trong thời gian qua. Theo đó, cả xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đều tăng vọt trong 9 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, xuất khẩu tăng 20% đạt 154,3 tỷ đô la (năm 2016 chỉ tăng 9%). Nhập khẩu còn tăng mạnh hơn, với tốc độ 22,7% trong cùng kỳ (so với tốc độ 5,6% năm 2016), đạt gần 154 tỷ đô la (xuất siêu 328 triệu đô la).
Nhìn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với 3 nước đối tác chính ở khu vực thì xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tiếp tục giữ vững đà tăng mạnh từ 2015, và đạt tốc độ 27,5% trong 9 tháng đầu năm nay. Xuất khẩu sang Trung Quốc bứt phá ngoạn mục so với năm 2016, đạt tốc độ tăng tới 47,1%. Trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu sang Nhật khiêm tốn hơn, ở mức 15,3% so với cùng kỳ năm 2016.


Do xuất khẩu sang Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng áp đảo nên thị phần xuất khẩu sang Trung Quốc tiếp tục gia tăng, chiếm đến 14,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 9 tháng đầu năm nay so với 12,4% cùng kỳ năm trước. Tiếp đó, thị phần xuất khẩu sang Hàn Quốc cũng tiếp tục được cải thiện lên 6,9% năm nay so với 6,5% năm trước. Ngược lại, do tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật có tốc độ chậm hơn nên thị phần sang Nhật có xu hướng ngày càng thu hẹp lại, còn 8% trong 9 tháng đầu năm nay so với 9,8% năm 2014.
Về phía nhập khẩu, nhập khẩu từ Hàn Quốc đã có bước nhảy đột biến, tăng trưởng tới 48.6% trong 9 tháng đầu năm so với chỉ 16,4% trong năm trước, đẩy nhập siêu của Việt Nam từ Hàn Quốc lên tới 23,7 tỷ đô la trong 9 tháng đầu năm nay so với mức nhập siêu 20,7 tỷ đô la năm 2016.


Nhập khẩu từ Trung Quốc và đặc biệt là Nhật tuy cũng tăng trưởng mạnh so với năm trước nhưng kém xa so với tốc độ nhập khẩu từ Hàn Quốc. Do nhập khẩu tăng trưởng chậm hơn xuất khẩu nên nhập siêu với Trung Quốc tụt giảm mạnh còn 19,5 tỷ đô la năm nay so với 28 tỷ năm trước. Trong khi đó, Việt Nam lại xuất siêu sang Nhật trong năm nay từ mức nhập siêu năm trước.
Như vậy, Hàn Quốc chính là nguyên nhân hàng đầu đằng sau tăng trưởng mạnh nhập khẩu của Việt Nam trong năm nay. Và dù thị phần nhập khẩu vẫn thấp hơn Trung Quốc nhưng khoảng cách này đang được thu hẹp rất nhanh.


Thay đổi về cơ cấu nhập khẩu
Vì bài này tập trung vào phân tích chuyện nhập siêu của Việt Nam nên ở phần này ta chỉ xét đến cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam tập trung vào các mặt hàng chính.


3 mặt hàng nhập khẩu chủ chốt của Việt Nam từ thế giới là (1) máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (gọi tắt là điện tử, linh kiện); (2) điện thoại các loại và linh kiện (điện thoại, linh kiện); và (3) máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (máy móc, phụ tùng), như được nêu ở Bảng 2.
Điều đáng chú ý là tỷ trọng của 3 mặt hàng nhập khẩu chính nói trên trong tổng kim ngạch nhập khẩu Việt Nam có xu hướng tăng đều và đáng kể trong mấy năm qua, từ 33,6% năm 2014 lên 41,3% trong 9 tháng đầu năm nay.


3 nước châu Á bạn hàng nhập khẩu chính của Việt Nam chiếm tỷ trọng chi phối trong 3 mặt hàng nhập khẩu chính, đặc biệt là mặt hàng điện thoại và linh kiện. Trong 3 nước này, Hàn Quốc dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng ở cả 3 mặt hàng, và về thị phần ở 1 mặt hàng là điện tử, linh kiện. Nói cách khác, nhập khẩu từ Hàn Quốc đã lấn át, tranh mất thị phần của Trung Quốc và nhất là của Nhật ít nhất là đối với 3 mặt hàng nhập khẩu chủ chốt.
Đánh giá


Điều đầu tiên có thể rút ra từ sự phân tích trên là tuy Việt Nam đều có các Hiệp định thương mại song phương/đa phương (FTA) với 3 nước bạn hàng châu Á nói trên nhưng xem ra FTA của Việt Nam với Hàn Quốc hiện đang phát huy rõ ràng tác dụng nhất, đặc biệt ở khía cạnh tốc độ tăng trưởng nhập khẩu vào Việt Nam từ Hàn Quốc.
Có thể lý giải cho sự tăng trưởng mạnh của Hàn Quốc với tư cách là một trong những bạn hàng thương mại chính (nhất là nhập khẩu) của Việt Nam là nhờ sự đầu tư gia tăng của Hàn Quốc vào Việt Nam như nhiều người đã chỉ ra. Nhưng cũng có thể còn lý do nữa là FTA với Hàn Quốc mới chỉ có hiệu lực từ cuối năm 2015, và thời gian đầu khi có hiệu lực thì thường chứng kiến sự gia tăng các hoạt động đầu tư và thương mại chớp lấy cơ hội mới mở ra. Không loại trừ khả năng xuất nhập khẩu và kể cả đầu tư của Hàn Quốc sẽ tăng trưởng trở lại tốc độ bình thường như các đối tác khác, Trung Quốc hay Nhật sau khi các FTA với họ đã tồn tại được một thời gian.


Thứ hai, có một mối lo ngại thường trực là càng ký nhiều FTA Việt Nam càng có khả năng trở nên thị trường tiêu thụ hàng hóa cho các nước đối tác do năng lực cạnh tranh xuất khẩu còn tương đối yếu, chưa tận dụng được các cơ hội mang lại từ các FTA này. Thực tế thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc cũng đã có sự bứt phá mạnh (cao hơn tăng trưởng xuất khẩu chung). Và nếu nhìn vào cơ cấu hàng nhập khẩu trong năm qua và năm nay, dễ thấy là sự tăng lên về nhập khẩu từ Hàn Quốc lại đồng hành với sự sụt giảm nhập khẩu (về thị phần) từ Trung Quốc và Nhật, hoặc từ các nước khác. Nói cách khác, có thể Việt Nam đã tìm được một bạn hàng để xuất khẩu và, đặc biệt là nhập khẩu phù hợp hơn, ít nhất là so với Trung Quốc và Nhật như được thể hiện ở nhóm hàng điện tử, linh kiện, và nhóm hàng máy móc, phụ tùng (Bảng 2). Và điều quan trọng là về tổng thể xuất nhập khẩu thì cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam khá cân bằng trong năm nay (vẫn xuất siêu nhẹ).
Tóm lại, sự lên ngôi của Hàn Quốc và đi kèm là sự thoái vị của Trung Quốc với tư cách là nước gây nhập siêu lớn cho Việt Nam không phải là điềm xấu ít nhất là xét đến thời điểm hiện tại, nhưng cũng không nhất thiết là điểm tốt nếu nhìn từ góc độ “thoát Trung”. Bởi rốt cuộc thì chỉ có thị trường mới quyết định ai sẽ là bạn hàng của ai, về cái gì.





No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).