Thursday 26 October 2017

Xử lý nợ xấu vẫn sẽ gian nan! (Bài đăng trên TBKTSG, 26/10/2017, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/165958/Xu-ly-no-xau-van-se-gian-nan.html

Bộ Tài chính vừa thông qua Quyết định 2071/QĐ-BTC về việc ban hành kế hoạch hành động triển khai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”. Trong quyết định này có một số điểm đáng chú ý, liên quan đến tiến trình và kết quả xử lý nợ xấu.

Đã có sự bóc tách cụ thể hơn về nợ xấu

Từ trước cho đến nay, người ta hầu như vẫn chỉ hiểu, được làm cho hiểu rằng nợ xấu chủ yếu là vấn đề của ngành ngân hàng, do các ngân hàng chịu trách nhiệm (và gánh tổn thất) là chính. Hầu như không có một văn bản pháp luật chính thức nào đề cập đến phần nợ xấu bị gây ra bởi sự liên quan, dính líu của các cấp đảng, chính quyền và các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, Quyết định 2071 đã đề cập (một cách gián tiếp) đến những khoản nợ xấu theo dạng này.

Cụ thể, Bộ Tài chính có các trách nhiệm sau:

Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố căn cứ quy định của pháp luật nghiên cứu xây dựng phương án và lộ trình bố trí nguồn xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước trung ương, địa phương, trình cấp có thẩm quyền quyết định để tổ chức thực hiện.”

“Căn cứ quy định của pháp luật, nghiên cứu, xây dựng lộ trình và báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án, nguồn xử lý các khoản nợ xấu từ hoạt động cho vay theo các chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam.”

“Căn cứ quy định của pháp luật, đánh giá, nghiên cứu phương án, lộ trình và bố trí nguồn xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến khoản nợ Chính phủ vay về cho vay lại và các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh.

Và “Chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ, ngành, các cơ quan chủ quản của các doanh nghiệp nhà nước và các cơ quan, tổ chức tín dụng liên quan xây dựng phương án xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước.”

Như vậy, một phần trong khối nợ xấu hiện nay của ngành ngân hàng đã được thừa nhận một cách gián tiếp là do nhà nước, chính quyền gây ra và/hoặc có trách nhiệm xử lý. Những khoản nợ xấu thuộc loại này gồm: (1) nợ xấu do hoặc liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản (do doanh nghiệp/ngân hàng không được giải ngân vốn ngân sách đầy đủ, đúng tiến độ?); (2) nợ xấu do cho vay theo các chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (chỉ định nhưng không cấp nguồn lực, làm cho các ngân hàng đã giải ngân phải “chịu trận” khi con nợ mất khả năng chi trả?); (3) nợ xấu từ các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh (nhưng Chính phủ chưa thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?); và (4) nợ xấu do doanh nghiệp nhà nước gây ra (có thể gồm các khoản vay theo chỉ định; các ngân hàng không thể làm gì được vì ông chủ các doanh nghiệp này là nhà nước).

Vi phạm hay không vi phạm Nghị quyết Quốc hội?

Sự bóc tách nợ xấu như trên về mặt nào đó có thể nói là một bước tiến đáng khích lệ trong công cuộc xử lý nợ xấu, với sự “vào cuộc” thông qua những nghĩa vụ và trách nhiệm cụ thể của nhà nước, của chính quyền các cấp, chứ không còn bị bỏ mặc cho ngành ngân hàng loay hoay tự xử lý như trước nữa. Tuy nhiên, đến đây lại phát sinh ra vấn đề liên quan.

Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu được Quốc hội thông qua hồi tháng 6 có nêu rõ quyết nghị “không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu.” Trong khi đó, theo Quyết định 2071 nói trên, Chính phủ có trách nhiệm bố trí nguồn (lực) xử lý các khoản nợ xấu thuộc trách nhiệm của mình. 

Ở đây chỉ có hai khả năng. Một là Chính phủ buộc phải dùng ngân sách nhà nước để thực hiện các nghĩa vụ của mình liên quan đến các khoản nợ xấu nói trên. Và điều này rõ ràng là vi phạm Nghị quyết 42. Phải chăng (Chính phủ biết rằng) Quốc hội sẽ (buộc phải) “châm trước”, bỏ qua sự vi phạm này, hoặc Quốc hội sẽ sớm ra một nghị quyết sửa đổi để gỡ vướng cho Chính phủ (và bản thân Quốc hội cũng đến lúc phải thẳng thắn thừa nhận vấn đề này)?

Khả năng thứ hai là Chính phủ sẽ phải tìm một nguồn lực, nguồn kinh phí nào đó không thuộc ngân sách. Về danh nghĩa, nguồn lực như vậy chỉ có thể đến từ một bên thứ ba, nhưng thường chỉ có được khi có sự liên đới về trách nhiệm của Chính phủ, ví dụ bảo lãnh, cam kết… Mà như vậy thì cũng vẫn là dùng ngân sách nhà nước vì không thể có khả năng 100% rằng những khoản tài chính dưới sự bảo lãnh, cam kết của Chính phủ sẽ được thu hồi hoàn toàn.

Trên hết, dù khả năng nào xảy ra chăng nữa thì vẫn thấy rõ một điều rằng việc thu xếp các nguồn tài chính để xử lý các khoản nợ xấu thuộc trách nhiệm của Chính phủ sẽ không hề dễ dàng, suôn sẻ. Một khi “danh” đã không “chính” thì “ngôn” sẽ chẳng “thuận”. Sẽ phải mất nhiều thời gian để giải quyết vướng mắc pháp lý giữa Quốc hội, Chính phủ, chủ nợ, các chủ thể liên quan và dư luận.

Gánh nặng tài chính ngày càng… quá nặng!

Một điểm đáng chú ý khác trong Quyết định 2071 là Bộ Tài chính có trách nhiệm “Chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân đối, bố trí nguồn để tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ đến năm 2020 để đáp ứng đủ vốn theo chuẩn mực vốn của Basel II…”

Trách nhiệm trên đồng nghĩa với áp lực thu chi ngân sách ngày càng lớn. Trước đây, Chính phủ còn trông vào cổ tức của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước như một nguồn thu bổ sung cho ngân sách cạn kiệt. Nhưng, với quy định này và những quy định liên quan khác, không những nguồn thu cổ tức này coi như không còn, ít nhất cho đến năm 2020, mà thậm chí ngược lại, Chính phủ phải trích ngân sách để bổ sung vốn cho các ngân hàng này.

Ngoài ra, hiện nay nhà nước còn là chủ sở hữu của 3 ngân hàng “0 đồng” mua bắt buộc từ 2 năm trước, hiện đang trong tình trạng âm vốn chủ sở hữu trầm trọng lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng. Chỉ riêng việc tái cấp vốn cho các ngân hàng này để phục hồi mức vốn điều lệ như quy định hiện hành cũng đã là một gánh nặng quá lớn, quá khó cho ngân sách. Nếu phải tuân theo tiêu chuẩn vốn của Basel II ở mức cao hơn nữa thì không khó để hình dung ngân sách sẽ căng thẳng đến mức nào, trừ khi 3 ngân hàng này tiếp tục được “để ngoài” phạm vi chế tài của các luật hiện hành như hiện tại. Nhưng nếu làm như vậy thì không biết bao giờ 3 ngân hàng này mới thoát khỏi được trạng thái “xác sống” để quay về với đời sống thường nhật?

Điều đáng nói thêm ở đây là căng thẳng ngân sách đương nhiên sẽ càng làm khó tiến trình xử lý nợ xấu, chí ít vì những khoản xử lý nợ xấu cần chi trả từ ngân sách sẽ không được thực hiện hoặc không đúng thời hạn.

Lại nghiên cứu và nghiên cứu…

Việc xử lý nợ xấu đang là việc “nước sôi lửa bỏng” nhưng Bộ Tài chính ít ra thì vẫn chỉ mới (bắt đầu, hy vọng là vậy) nghiên cứu, hoàn thiện, xây dựng một số vấn đề về, ví dụ, hoạt động mua, bán nợ của các doanh nghiệp, về hình thành, phát triển và quản lý thị trường mua, bán nợ; phương án và lộ trình bố trí nguồn xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản; phương án, lộ trình và bố trí nguồn xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến khoản nợ Chính phủ vay về cho vay lại và các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh; phương án xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước; hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ, và cơ chế tài chính đối với các tổ chức tín dụng yếu kém trong quá trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu.

Lộ trình thực hiện cho những sự nghiên cứu với hoàn thiện nói trên, ngắn thì là đến năm 2018, dài thì đến tận năm 2020. Điều này có nghĩa là việc xử lý nợ xấu hiện tại sẽ tiếp tục là câu chuyện dài tập khi mà cơ chế và khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động và giải pháp xử lý liên quan nói trên, có những cái chỉ (hy vọng là) được hoàn thành, hoàn thiện vào năm 2020.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).