Sunday 31 December 2017

Gỡ nút thắt về xử lý tài chính và định giá đất đai trong cổ phần hóa (Bài đăng trên TBKTSG, 31/12/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/266944/Go-nut-that-ve-xu-ly-tai-chinh-va-dinh-gia-dat-dai-trong-co-phan-hoa.html

So với các nghị định trước đây về chuyển doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần (CTCP) như Nghị định 59/2011/NĐ-CP và các nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định 59 gồm Nghị định 189/2013/NĐ-CP và Nghị định 116/2015/NĐ-CP thì Nghị định 126/2017/NĐ-CP có một số quy định mới xử lý những vướng mắc hiện tại liên quan đến DNNN khi cổ phần hóa cũng như sau cổ phần hóa.
Kế thừa nghĩa vụ tài chính
Trong Nghị định 126, điều 10 quy định về nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của CTCP được chuyển đổi từ DNNN. Đáng chú ý là điều này quy định chung cho các CTCP được chuyển đổi từ mọi DNNN mà không phải chỉ là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước như trong Nghị định 59. Điều này rất có ý nghĩa trong một số trường hợp đặc thù sẽ được nói thêm ở phần sau.
Tương tự như Nghị định 59, Nghị định 126 cũng quy định rằng CTCP kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp cổ phần hóa.
Điểm khác biệt là Nghị định 59 quy định các nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định bổ sung sau khi đã được cơ quan có thẩm quyền quyết toán, bàn giao cho CTCP không thuộc trách nhiệm của CTCP. Trường hợp sau khi bàn giao sang CTCP mới phát sinh khoản truy thu hoặc xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong thời gian là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì, theo Nghị định 59, cần làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể để thực hiện việc bồi hoàn, nộp phạt, xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể hiểu rằng CTCP sẽ không chịu trách nhiệm giải quyết những nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp cổ phần hóa như nợ đọng thuế và lãi phạt trả chậm, vốn đang làm ngành thuế vụ đau đầu và đang phải dự thảo đề xuất xóa nợ cho những trường hợp này.
Trong khi đó, điều khoản có phạm vi điều chỉnh tương tự của Nghị định 126 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn. Cụ thể, trong trường hợp có tài sản thiếu, nếu doanh nghiệp chưa thực hiện quyết toán tại thời điểm chính thức chuyển thành CTCP thì hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm chính thức chuyển sang CTCP; nếu doanh nghiệp đã thực hiện quyết toán tại thời điểm chính thức chuyển thành CTCP thì thực hiện giảm vốn nhà nước tại CTCP hoặc hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh của CTCP. Như vậy, vướng mắc của CTCP về các nghĩa vụ tài chính gồm chuyện nợ đọng thuế gây ra bởi doanh nghiệp trước cổ phần hóa đã có các phương án giải quyết dứt điểm mà không còn bị “treo” ở đó, trở thành đối tượng để ngành thuế xin xóa nợ như trước nữa.

Hơn nữa, việc chuyển giao những nghĩa vụ tài chính cho CTCP sẽ được áp dụng không chỉ với trường hợp doanh nghiệp trước cổ phần hóa là doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước như quy định trong Nghị định 59 mà còn được áp dụng với mọi DNNN, theo Nghị định 126. Sự mở rộng đối tượng này sẽ giúp hạn chế những vướng mắc phát sinh liên quan đến không chỉ hoạt động của CTCP mà còn các vấn đề và thực thể liên quan như việc nợ đọng thuế và ngành thuế nói ở trên.

Xử lý tài chính khi cổ phần hóa
Đất đai là vấn đề nổi cộm trong quá trình cổ phần hóa DNNN vì khả năng định giá “rẻ như cho” hoặc khả năng lạm dụng những kẽ hở của pháp luật về cổ phần hóa để trục lợi, biến tài sản đất công thành tài sản riêng. Tuy nhiên, Nghị định 59 quy định khá sơ sài về việc kiểm kê, phân loại tài sản và xử lý tồn tại về tài chính. Đáng chú ý nhất là đã không có một dòng nào đề cập đến chuyện đất đai thuộc sự quản lý và sử dụng của doanh nghiệp trong quy định này.
Trong điều khoản tương tự (về việc kiểm kê, phân loại tài sản và xử lý tồn tại về tài chính), Nghị định 126 đã đề cập trước tiên đến trách nhiệm của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa là phải rà soát và lập phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng tại địa phương, và trình cơ quan có thẩm quyền xem xét và phê duyệt trước thời điểm quyết định cổ phần hóa. Với quy định mới này, tình trạng nhà đầu tư mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa chỉ nhằm thâu tóm và chuyển đổi mục đích sử dụng (khác với mục đích đăng ký khi mua cổ phần) các mảnh đất có giá trị thành, ví dụ, các dự án nhà để bán có lợi nhuận lớn, sẽ bị hạn chế phần nào.
Giá trị quyền sử dụng đất
Nghị định 126 quy định đối với những diện tích đất được giao để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà để bán và xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê theo phương án sử dụng đất của doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp. Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất cụ thể tại vị trí doanh nghiệp có diện tích đất được giao do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định theo quy định tại khoản 3 và điểm d khoản 4, điều 114 của Luật Đất đai.

Đây là điểm mới và cụ thể hơn so với Nghị định 189 sửa đổi Nghị định 59. Bởi Nghị định 189 quy định khá chung chung rằng: “Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất có mục đích sử dụng tương tự thực tế trên thị trường do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác định nhưng không thấp hơn bảng giá đất do UBND cấp tỉnh, thành phố quy định và công bố tại thời điểm gần nhất với thời điểm tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa”.

Nói là khá chung chung vì có các khái niệm chung chung, trừu tượng trong quy định này. Cụ thể hơn, vì không có một mức định lượng cụ thể nào nên người ta có thể diễn giải sự chênh lệch 10%, 15% hay 20% là “sát với” giá đất cụ thể. Mà sự chênh lệch này là quá đủ để kích thích sự trục lợi bất chính.


Bên cạnh đó, “giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất có mục đích sử dụng tương tự thực tế” cũng là một khái niệm rất mơ hồ, lỏng lẻo vì “mục đích sử dụng tương tự” không nhất thiết đồng nghĩa với “giá đất tương tự” thực tế trên thị trường, tạo điều kiện lớn cho sự trục lợi khi sử dụng một trường hợp có mục đích sử dụng giống nhau nhưng giá rẻ hơn rất nhiều do vị trí khác nhau để làm giá tham chiếu cho giá đất của doanh nghiệp cổ phần hóa.
Ngoài ra, việc quy định sử dụng “giá đất cụ thể tại vị trí doanh nghiệp có diện tích đất được giao” trong Nghị định 126 sẽ có tính chính xác, cập nhật hơn so với việc sử dụng “bảng giá đất do UBND cấp tỉnh, thành phố quy định” như trong Nghị định 189, bởi bảng giá đất này có diện áp dụng chung cho cả một khu vực, tuyến đường mà trên thực tế có sự sai khác rất lớn giữa các vị trí trong cùng khu vực, tuyến đường. Bảng giá đất này cũng chỉ được cập nhật mỗi năm năm một lần, hoàn toàn có thể đã trở thành quá lạc hậu vào, ví dụ, năm thứ tư kể từ khi được ban hành, cũng là thời điểm xác định giá trị đất đai của doanh nghiệp cổ phần hóa.

Thursday 21 December 2017

Giải bài toán BOT và vốn vay ngân hàng (Bài đăng trên TBKTSG, 21/12/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/266658/Giai-bai-toan-BOT-va-von-vay-ngan-hang.html

Hiện đang có  xung đột giữa người lái xe và các dự án đường BOT ở một số nơi mà nguyên nhân trực tiếp là do các lái xe phản đối mức phí sử dụng đường của BOT ở mức quá cao và đặt các trạm thu phí theo kiểu “bắt chẹt”, bất hợp lý. Hình thức phản đối phổ biến là dùng tiền lẻ để gây ùn tắc, buộc các trạm thu phí phải “xả trạm”.

Vấn đề không dừng lại ở đây. Vì đa phần vốn xây dựng các dự án đường theo hình thức BOT là từ vốn vay ngân hàng nên nếu các dự án BOT này tiếp tục bị phản đối thì chủ đầu tư dự án buộc phải hạ phí hoặc bố trí lại vị trí trạm thu phí, dẫn đến ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận và kéo dài thời gian thu phí để thu hồi vốn đầu tư. Tiếp đến, các ngân hàng với tư cách là nhà tài trợ vốn sẽ buộc phải thận trọng hơn khi cấp vốn cho các dự án BOT do những rủi ro hiện hữu.
Nhìn xa hơn nữa, các dự án BOT tương lai, đặc biệt những dự án quan trọng như cao tốc Bắc Nam giai đoạn 2017-2020 với quy mô gần 119 nghìn tỷ với vốn nhà đầu tư tư nhân vay ngân hàng là 51 nghìn tỷ có nguy cơ “đắp chiếu” nếu các ngân hàng không dám cho vay hoặc cho vay chỉ một phần của nhu cầu vốn của nhà đầu tư BOT. Nếu bằng cách nào đó “thuyết phục” hay vận động mà các ngân hàng chịu cấp vốn cho các dự án BOT thì lại nảy sinh vấn đề nợ xấu tiềm tàng song hành cùng với dự án BOT này. 
Cụ thể hơn về chuyện nợ xấu, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến tháng 9/2017, dư nợ với các dự án BOT giao thông ước tính là 90,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,46% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng. Không rõ trong số này có bao nhiêu nợ xấu đã phát sinh, nhưng với thêm 51 nghìn tỷ đồng dự tính các nhà đầu tư tư nhân phải vay ngân hàng cho dự án cao tốc Bắc Nam, dư nợ cấp cho các dự án giao thông BOT tính sơ sơ cũng sẽ tăng lên khoảng trên 2% tổng dư nợ, đẩy áp lực nợ xấu tăng lên đáng kể nếu giả sử mức độ rủi ro các dự án BOT giao thông là như nhau, vẫn rủi ro như hiện tại.
Vậy có cách nào giải quyết ổn thỏa mối quan hệ khá trúc trắc, mong manh giữa người sử dụng đường trong các dự án BOT, các chủ đầu tư của dự án BOT, các ngân hàng và Nhà nước hay không?
Câu trả lời là có, với Nhà nước đóng vai trò thiết yếu. Trước tiên là phải giải quyết ổn thỏa mối quan hệ giữa người sử dụng và chủ đầu tư BOT mà thực ra nằm ở mức phí. Về phía người sử dụng, cần luôn được trao hai lựa chọn – đi đường thường với tốc độ chậm hơn, chất lượng đường kém hơn, nhiều tai nạn hơn nhưng miễn phí, hoặc đi đường của dự án BOT nhanh hơn, an toàn và thoải mái hơn, nhưng phải trả phí. Để làm được việc này, Nhà nước cần luôn phải đảm bảo duy trì hệ thống đường đầu tư bằng ngân sách hiện có bên cạnh những dự án đường BOT, chứ không làm khó dân bằng cách cho nhà đầu tư tư nhân, ví dụ, tráng nhựa và nâng cấp con đường hiện hữu được đầu tư bằng ngân sách, rồi tiến hành thu phí như với dự án BOT thông thường, làm dân không còn lựa chọn nào khác là phải trả phí mới được đi lại theo lộ trình như trước đây. Với dự án đường cao tốc Bắc Nam, Nhà nước cần tiếp tục duy tu, bảo dưỡng hệ thống đường quốc lộ Bắc Nam hiện có, song song với hệ thống đường cao tốc BOT mới, nếu có. 
Nhà nước cũng phải đảm bảo các dự án BOT cần có mức phí hợp lý tính theo tương quan giữa thu nhập người dân, chi phí kinh tế-xã hội khi sử dụng đường BOT với suất đầu tư làm đường. Một nguyên tắc bất di bất dịch ở đây là mọi dự án BOT phải có đấu thầu giữa nhiều hơn một, thậm chí là nhiều hơn một số tối thiểu nhà đầu tư nào đó, chẳng hạn ba, bốn nhà đầu tư, để đảm bảo  suất đầu tư đưa ra là tương đối sát với thực tế. Nếu không có đủ số lượng nhà đầu tư theo yêu cầu thì cần theo đúng nguyên tắc là dừng việc triển khai dự án cho đến khi nào có đủ số nhà đầu tư quan tâm, dự thầu.
Trong các hợp đồng BOT ký kết với Nhà nước, cần có điều khoản Nhà nước được điều chỉnh mức phí và thời gian thu phí khi có cơ sở vững chắc để làm việc này. Một trong những cơ sở đó là doanh thu bình quân của dự án được phản ánh qua hệ thống thu phí điện tử tự động, bắt buộc chủ đầu tư phải lắp đặt và cho hoạt động ngay từ ngày đầu tiên đưa dự án vào hoạt động thương mại. Người sử dụng cũng buộc phải lắp đặt thiết bị nộp phí tự động khi muốn sử dụng đường BOT (nếu vi phạm thì sẽ bị phạt).
Đưa vào sử dụng hệ thống thu phí tự động không chỉ làm giảm khả năng cố ý đội vốn của chủ đầu tư hay khả năng thông thầu, gian lận khi đấu thầu, mà còn triệt tiêu khả năng lái xe sử dụng “chiêu” dùng tiền lẻ để gây ách tắc, buộc phải “xả trạm” như hiện tại. Việc này còn có tác dụng rất có ý nghĩa khác là tăng tốc độ lưu thông trung bình, nhờ đó giảm chi phí xã hội liên quan, đặc biệt cho người sử dụng, đồng thời tăng doanh thu cho chủ đầu tư nhờ có thể có thêm người sử dụng, tạo điều kiện để chủ đầu tư có thể (bắt buộc phải) giảm mức phí. 
Về phía ngân hàng, thực ra nếu mức dư nợ cho vay cho các dự án giao thông BOT có tăng lên thêm gấp đôi hay gấp ba mức hiện tại thì tỷ trọng trong tổng dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng cũng chỉ quanh quẩn một vài phần trăm, cũng không phải là quá nhiều. Điều quan trọng là phải giảm thiểu mức độ rủi ro đi kèm với cho vay các dự án BOT giao thông. Muốn vậy, các ngân hàng muốn cho vay thì cần phải bám sát các nguyên tắc liên quan như nói ở phần trên. Cụ thể, chỉ nên cho vay khi các dự án BOT có ít rủi ro xung đột với người sử dụng vì, ví dụ, có hệ thống đường miễn phí song song, có quá trình tuyển chọn chủ đầu tư thông qua đấu thầu công khai, dự án có lắp đặt hệ thống thu phí tự động, và chỉ cho vay khi chủ đầu tư có nguồn vốn đối ứng ở mức cao hơn so với hiện tại, từ đó giới hạn đối tượng được vay chỉ ở những nhà đầu tư thực sự có năng lực...


Monday 18 December 2017

Fed “mất thiêng” với tỉ giá tiền đồng? (Bài đăng trên CafeF, 18/12/2017)

http://cafef.vn/fed-mat-thieng-voi-ti-gia-tien-dong-20171218084132426.chn


Hai ba năm trở lại đây các động thái điều hành lãi suất USD của Fed được thế giới, trong đó có Việt Nam theo dõi chặt chẽ, bởi các động thái này thường gây những biến động lên tỉ giá các đồng nội tệ của mình. Lãi suất USD tác động lên tỉ giá các đồng nội tệ, nói đơn giản, là bởi khi lãi suất USD tăng sẽ có xu hướng làm tăng dòng vốn chảy từ các thị trường khác ngoài Mỹ về Mỹ để hưởng lãi suất cao hơn, dẫn đến áp lực gia tăng lên tỉ giá các đồng nội tệ.

Tuy vậy, những lần nâng lãi suất của Fed trong năm 2017 (tháng 3, 6, và 12) dường như không gây ra tác động đáng kể lên tỉ giá tiền đồng, không như kỳ vọng từ lý thuyết. Như được thể hiện ở Biểu 1 mô tả diễn biến tỉ giá tiền đồng dưới đây, tỉ giá tiền đồng khá ổn định, chỉ dao động trong biên độ hẹp trong suốt cả năm. Kể cả vào những thời điểm Fed nâng lãi suất USD, tỉ giá tiền đồng cũng chỉ dao động mạnh (nếu có) trong một thời gian rất ngắn, tính bằng ngày rồi lại nhanh chóng quay trở về mức cân bằng trên 22.700 một chút.

Biểu 1: Tỷ giá VND/USDNguồn: xe.com

Các yếu tố nâng đỡ tỉ giá tiền đồng

Cần lưu ý rằng tác động của việc nâng lãi suất USD lên tỉ giá nội tệ theo lý thuyết nói ở phần đầu chỉ đúng khi các điều kiện khác không thay đổi. Ở Việt Nam, thay đổi đáng kể trước tiên có thể thấy là luồng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và gián tiếp (FII) vào Việt Nam đã tăng mạnh trong năm nay so với các năm trước đó, đóng vai trò là một trong những nguồn cung USD chủ chốt ở Việt Nam.

Thay đổi thứ hai là sự xuất siêu đã trở nên một xu hướng vững chắc song hành với sự gia tăng xuất khẩu mạnh mẽ của những doanh nghiệp FDI thành công như Samsung, góp một phần lớn trong con số xuất siêu hơn 3 tỷ USD tính đến nay. Xuất siêu cũng có nghĩa là nguồn cung USD ở Việt Nam được bổ sung đáng kể so với các năm trước.

Một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc nâng đỡ tỉ giá tiền đồng là xu hướng yếu đi của đồng USD so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới (Biểu 2). Do tỉ giá tiền đồng được điều hành theo xu hướng giữ ổn định nên sự mất giá của USD so với các đồng tiền khác vô hình trung làm cho tiền đồng cũng suy yếu tương ứng so với các đồng tiền khác. Sự suy yếu này có tác dụng tích cực trong việc duy trì tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam vào những thị trường này, không những có thể là một yếu tố đằng sau con số xuất siêu hơn 3 tỷ  USD nói trên mà còn có ý nghĩa tích cực ở khía cạnh rằng tiền đồng không phải chịu sức ép phá giá lớn để duy trì tính cạnh tranh cho hàng hóa của Việt Nam ở thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu như những năm trước đây khi tiền đồng lên giá thực so với USD và các đồng tiền khác ít nhất bởi lạm phát ở Việt Nam cao hơn đáng kể các nước đối tác thương mại của mình.

Nguồn: Bloomberg

Ngoài ra, bản thân sự nâng lãi suất USD một cách rất thận trọng, mỗi lần chỉ 0,25 điểm phần trăm với giãn cách lớn hàng nhiều tháng giữa các lần nâng tự thân nó cũng là một yếu tố làm giảm thiểu tác động, nếu có, lên tỉ giá nội tệ các nước khác, trong đó có tiền đồng.

Sau cùng, dù Chính phủ mong muốn giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nhưng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dường như đã khá nới lỏng sự quản lý lãi suất của mình, như được thể hiện bằng việc nhiều ngân hàng thương mại trong nhiều thời điểm đã tăng lãi suất huy động lên đáng kể, và đợt nâng lãi suất gần đây nhất chỉ diễn ra mấy ngày trước khi Fed nâng lãi suất trong tuần này. Lãi suất tiền đồng tăng chắc chắn cũng đã góp một phần không nhỏ v ào sự ổn định của tỉ giá tiền đồng.

Vẫn sẽ “thiêng” nếu…

Phân tích những yếu tố tích cực nâng đỡ tỉ giá tiền đồng như trên không có nghĩa là đi đến kết luận rằng Fed sau này có nâng lãi suất USD lên bao nhiêu chăng nữa thì Việt Nam vẫn có thể yên tâm về sự ổn định của tỉ giá tiền đồng.

Như đã nói ở trên, có cả những yếu tố tích cực khách quan và chủ quan hậu thuẫn cho sự ổn định của tỉ giá tiền đồng trong cả năm 2017. Nếu những yếu tố này thay đổi theo hướng ngược lại, hoặc kể cả không thay đổi, thì hành động tăng lãi suất USD của Fed với mức lớn và tần suất dầy chắc chắn sẽ gây tác động bất ổn lên tỉ giá tiền đồng. Để chống đỡ các cơn bất ổn tỉ giá, NHNN chắc chắn sẽ hoặc phải can thiệp trực tiếp vào cung cầu USD và/hoặc phải để lãi suất tăng nhằm giảm tỏa áp lực lên tỉ giá (nếu coi ổn định tỉ giá là ưu tiên hàng đầu), một khi hoàn cảnh không còn thuận lợi như trong năm 2017 nữa.

Điều rút ra ở đây là không nên có thái độ chủ quan với những tác động ngoại lai như thế này lên tỉ giá với những lập luận, ví dụ, việc Fed nâng lãi suất USD đã được dự báo, dự phòng từ trước và đã được phản ánh vào tỉ giá, lãi suất v.v… như vẫn thường được chỉ ra ở Việt Nam trong thời gian qua. Những tác động tiêu cực ngoại lai bình thường sẽ có thể là không đáng kể nhưng sẽ được nhân lên đáng kể khi có các bất ổn vĩ mô nội tại như đã từng được nếm trải đủ trong nhiều năm qua.

Sunday 17 December 2017

Tiếp tục gỡ nút thắt cổ phần hóa DNNN (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/266339/Tiep-tuc-go-nut-that-co-phan-hoa-DNNN.html

Chính phủ mới ban hành Nghị định 126/2017/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do DNNN đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần. Theo đó, nghị định này sẽ chặt hơn trong một số nội dung nhưng lại thoáng hơn ở mộc số nội dung khác. Do khuôn khổ bài viết có hạn, ở đây chỉ nêu ra một số điểm liên quan đến điều kiện và đối tượng DNNN thực hiện cổ phần hóa, đối tượng mua cổ phần là nhà đầu tư chiến lược và giá bán cổ phần cho họ.
Thứ nhất, Nghị định 126 đã quy định chi tiết hơn về điều kiện cổ phần hóa so với Nghị định 59/2011/NĐ-CP và các nghị định sửa đổi Nghị định 59. Theo Nghị định 126, trong trường hợp các doanh nghiệp sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị doanh nghiệp mà giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì chỉ các doanh nghiệp thuộc danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần khi cổ phần hóa mới cần phải phối hợp với Công ty Mua bán nợ Việt Nam (VAMC) và các chủ nợ của doanh nghiệp xây dựng phương án mua bán nợ để tái cơ cấu doanh nghiệp. Trong khi đó, theo Nghị định 59, đối tượng thực hiện việc này là tất cả các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa có giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả.
Như vậy, Nghị định 126 đã mở ra lối thoát thêm cho một số doanh nghiệp không thuộc đối tượng Nhà nước nắm trên 50% cổ phần gặp khó khăn tài chính trong quá trình cổ phần hóa mà nếu theo các quy định cũ trước đây thì có nhiều khả năng cứ bị treo ở đó, không cổ phần hóa được mà cũng không thể thực hiện các hình thức chuyển đổi khác (gồm cả phá sản) được vì cứ phải thực hiện phương án tái cơ cấu nợ thông qua VAMC và các chủ nợ vốn rất gian nan, mất thời gian mà không chắc đã đi đến kết quả ngã ngũ gì.
Thứ hai, Nghị định 126 cũng có thêm một điểm mới liên quan đến đối tượng cổ phần hóa, là việc Nhà nước không cấp thêm vốn để cổ phần hóa. Quy định này có lẽ nhằm tránh khả năng nếu rót vốn thì không những Nhà nước tự biến thành con tin của DNNN khi tiếp tục phải rót vốn khi DNNN không phục hồi được, mà còn đi ngược lại một trong những mục đích cổ phần hóa là để giảm gánh nặng cho ngân sách. Quy định rõ ràng như thế này đã gạt bỏ lối tư duy hiện hữu là muốn cổ phần hóa thành công DNNN có tài chính yếu kém thì Nhà nước phải rót vốn bổ sung để DNNN có giá trị thực tế lớn hơn 0, và/hoặc để DNNN hoạt động (bình thường) được nhằm thu hút nhà đầu tư cho việc cổ phần hóa.
Thứ ba, về đối tượng mua cổ phần, Nghị định 126 quy định chặt chẽ, cụ thể và chi tiết hơn về nhà đầu tư chiến lược, như phải có kết quả kinh doanh 2 năm gần nhất có lãi, cam kết tiếp tục duy trì ngành nghề kinh doanh chính và thương hiệu của doanh nghiệp cổ phần hóa trong thời gian ít nhất 3 năm kể từ thời điểm chính thức trở thành nhà đầu tư chiến lược … Việc tiêu chuẩn hóa, luật hóa các điều kiện thế này, tuy vẫn còn một số điều có thể gây tranh cãi về sự cần thiết, ít nhất cũng tạo ra một sự minh bạch về tiêu chuẩn và việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, giảm thiểu khả năng “chọn nhầm” những nhà đầu tư chỉ quan tâm đến “đánh nhanh thắng nhanh”, mua cổ phần với mục đích đầu cơ hơn là đầu tư, hoặc vì những động cơ khác (không có lợi cho Việt Nam). Quy định rõ như vậy cũng làm giảm khả năng vận động hành lang của một số doanh nghiệp, nhà đầu tư nhằm được chọn làm nhà đầu tư chiến lược.
Bù lại, Nghị định 126 cũng “thoáng” hơn khi quy định nhà đầu tư không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời hạn 3 năm (so với 5 năm theo quy định cũ). Điều này là đỡ trói buộc hơn cho nhà đầu tư, tăng thêm phần hấp dẫn của việc đầu tư vào DNNN.
Ngoài ra, nghị định này cũng quy định việc tổ chức bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần khi cổ phần hóa, thay vì là mọi DNNN khi cổ phần hóa như trước đây. Tác dụng của sự thu hẹp này là đẩy nhanh việc cổ phần hóa ở những DNNN mà Nhà nước không cần chi phối, vốn vẫn thường bị vướng mắc ở chuyện tìm và duyệt nhà đầu tư chiến lược như hiện nay.
Liên quan đến số lượng nhà đầu tư chiến lược, quy định mới không giới hạn số nhà đầu tư chiến lược như trong quy định cũ (tối đa là 3). Có lẽ sự sửa đổi này xuất phát từ thực tế có nhiều nhà đầu tư chiến lược nhưng số cổ phần họ mua không ở mức đủ lớn nên nếu hạn chế số lượng tối đa nhà đầu tư chiến lược thì việc cổ phần hóa qua nhà đầu tư chiến lược càng khó khăn (một cách không cần thiết). Ngược lại, càng có nhiều nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần (nhiều hơn số lượng muốn bán) thì giá bán cổ phần càng có thêm hỗ trợ do họ phải cạnh tranh, đấu giá với nhau.
Thứ tư, về giá bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược, điểm khác biệt trong quy định mới là kết quả của cuộc đấu giá công khai ra công chúng thường được lấy làm giá khởi điểm hoặc giá bán cho nhà đầu tư chiến lược, và việc đấu giá hay quyết định giá bán cho nhà đầu tư chiến lược chỉ xảy ra sau khi đã có kết quả đấu giá công khai ra công chúng. Theo quy định cũ trước đây, vẫn có trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược theo giá thỏa thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư diễn ra trước khi đấu giá công khai ra công chúng, tuy giá thỏa thuận hoặc giá đấu thành công này được quy định không thấp hơn giá khởi điểm được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Như vậy, giá bán cho nhà đầu tư chiến lược theo quy định mới sẽ công khai, minh bạch hơn, không “tù mù” diễn ra sau cánh gà chỉ một số ít người trong cuộc mới biết, và không mang tính chủ quan như kiểu giá khởi điểm do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt như trước đây.

Thursday 14 December 2017

Xử lý tình trạng “né” thuế của các công ty đa quốc gia (Bài đăng trên TBKTSG, 14/12/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/266336/Xu-ly-tinh-trang-ne-thue-cua-cac-cong-ty-da-quoc-gia.html
Từ nhiều năm nay các cơ quan chức năng ở Việt Nam vẫn loay hoay tìm cách thu “đủ” thuế từ các công ty đa quốc gia, nhất là các công ty cung cấp các dịch vụ số xuyên biên giới trong các lĩnh vực quảng cáo trực tuyến, thương mại điện tử, chia sẻ, đặt chỗ như Facebook, Google, Amazon, Airbnb, Grab, Uber, Agoda hay Traveloka...
Ngoài Việt Nam, việc các công ty đa quốc gia chỉ trả thuế ở một mức mang tính tượng trưng không tương xứng với quy mô hoạt động và lợi nhuận cao của chúng ở nước sở tại đã trở thành một vấn nạn mang tính toàn cầu, làm đau đầu cơ quan thuế vụ ở nhiều nước trong việc tìm ra một giải pháp “tâm phục khẩu phục” để thu được nhiều thuế hơn từ những “ông lớn” này.
Gần đây, một số nước phát triển như Anh, Úc, Israel, Pháp, Đức, Áo và các nước đang phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan đã và đang đi đến một số giải pháp đặc thù, có thể là một tham khảo tốt cho Việt Nam.
Cách “né” thuế
Lấy trường hợp của Google làm ví dụ. Đây là một công ty của Mỹ, thành lập và có trụ sở ở Mỹ. Năm 2014, họ nộp 3,3 tỉ đô la Mỹ tiền thuế, chiếm khoảng 20% của lợi nhuận 17 tỉ đô la (với doanh thu 66 tỉ đô la) năm đó. Mức này thấp hơn nhiều so với mức thuế doanh nghiệp 35% ở Mỹ. Để làm được điều này, Google đã dùng các “chiêu” như nắm giữ, phân bổ phần lớn giá trị các tài sản sở hữu trí tuệ (được phát triển ở Mỹ) cho mảng kinh doanh ngoài Mỹ (đăng ký ở “thiên đường thuế” Bermuda) nhằm hợp pháp nhận các khoản phí bản quyền, thay vì chuyển về Mỹ - vốn sẽ làm tăng lợi nhuận tạo ra trên đất Mỹ và dẫn đến phải trả nhiều thuế hơn.

Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Google đặt trụ sở khu vực ở Singapore, nơi thuế doanh nghiệp là 17%, thuộc vào hàng thấp không chỉ trong khu vực mà còn trên thế giới. Google hạch toán doanh thu quảng cáo thu được từ nước khác, ví dụ Indonesia, vào pháp nhân của họ ở Singapore. Điều này đã dẫn đến cáo buộc của Indonesia, nơi mức thuế doanh nghiệp là 25%, rằng Google không trả đủ thuế trong suốt năm năm qua, dù Google biện hộ rằng pháp nhân của họ ở Indonesia không quản lý doanh thu quảng cáo.
Đa dạng phản ứng
Indonesia phản ứng bằng cách tiến hành khám xét văn phòng Google ở thủ đô Jakarta để thu thập dữ liệu về doanh thu quảng cáo của Google ở Indonesia. Hồi tháng 6 năm nay, Indonesia đã đạt được thỏa thuận với Google bằng một khoản tiền thuế nộp bổ sung không được công bố, nhưng được cho rằng thấp hơn mức 5.000 tỉ rupiah (khoảng 8.400 tỉ đồng) mà cơ quan thuế vụ nước này đòi Google phải trả bổ sung chỉ riêng cho năm 2015. Thỏa thuận này mở đường cho Indonesia yêu cầu Google và những công ty tương tự phải phân bổ một phần lớn hơn doanh thu và lợi nhuận của mình cho pháp nhân của họ ở Indonesia.
Ở Úc, luật chống tránh thuế quy định các công ty đa quốc gia với doanh thu toàn cầu hơn 1 tỉ đô la Mỹ và doanh thu ở Úc hơn 25 triệu đô la Mỹ phải chịu thuế suất 40% cho lợi nhuận, cao hơn mức thuế doanh nghiệp 30%.
Các nước khác lại chọn giải pháp đánh thuế trực tiếp lên các giao dịch tài chính. Hồi tháng 7 năm nay, Ấn Độ đánh thuế hàng hóa và dịch vụ thống nhất toàn quốc cho hàng ngàn sản phẩm từ dịch vụ gọi xe qua mạng đến thương mại điện tử. Tương tự, Thái Lan đang đề xuất đánh thuế tối đa 15% lên các giao dịch trực tuyến và phí quảng cáo trên các mạng xã hội như Facebook, Google, Line và các phần mềm ứng dụng gọi xe như Uber và Grab.
Các nước thuộc khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) đã đưa ra các đề xuất để tính toán và thực thi các loại thuế đánh lên các dịch vụ điện tử của các công ty công nghệ số, kể cả trong trường hợp chúng không có pháp nhân đại diện ở nước sở tại. Còn trong khối Cộng đồng chung châu Âu (EU), một số thành viên chủ chốt đã ủng hộ mạnh mẽ giải pháp đánh thuế trên doanh thu chứ không phải là lợi nhuận tạo ra từ các hoạt động của các công ty này ở nước sở tại (với thuế suất mà Pháp đề nghị là từ 2-5%).
Và ở Việt Nam...
Tại Việt Nam, tình hình thu thuế các công ty đa quốc gia cung cấp dịch vụ số đang có những tín hiệu trái chiều. Một mặt, theo giải trình của Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng trước Quốc hội hồi tháng 11 vừa rồi, thì “kinh doanh điện tử trên Google cũng đã thực hiện kê khai nhưng chưa thu được”. Mặt khác, ông Dũng cho biết Uber và Grab đã tự giác kê khai, nộp thuế; Tổng cục Thuế cũng đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, trên cơ sở đó tăng thu của Uber và Grab lần lượt là 67 tỉ và 3 tỉ đồng(1).
Như là một phần của gói giải pháp nhằm thu được nhiều thuế hơn từ những công ty này, Bộ Tài chính đề xuất Ngân hàng Nhà nước yêu cầu việc thanh toán cho các dịch vụ quảng cáo trực tuyến được tiến hành thông qua Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia (Napas). Đồng thời, bộ này cũng đề xuất các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet phải mở văn phòng đại diện tại Việt Nam và khai báo nộp thuế nhà thầu.
Tuy vậy, những giải pháp trên đã và sẽ vấp phải những trở ngại pháp lý. Chẳng hạn, giải pháp thực hiện thanh toán qua Napas có thể là hữu hiệu nhưng có người đã chỉ ra rằng vì Google hay Facebook chưa thành lập pháp nhân ở Việt Nam thì khó thuyết phục được họ thực hiện thanh toán qua Napas.
Còn với giải pháp buộc các công ty này mở văn phòng đại diện và khai báo nộp thuế nhà thầu thì cần lưu ý rằng trong những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, chẳng hạn như TPP (nay được đổi thành CPTPP và đang đợi phê chuẩn) có điều khoản quy định rằng một nước thành viên TPP không được yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ của một nước thành viên khác phải thiết lập hoặc duy trì văn phòng đại diện hay bất kỳ hình thức doanh nghiệp nào, hoặc phải sinh sống, trên lãnh thổ của thành viên đó như một điều kiện để cung cấp dịch vụ xuyên biên giới.
Như vậy, với quy định này, Việt Nam chắc không thể buộc pháp nhân đại diện cho, ví dụ như Google ở Singapore, phải mở văn phòng đại diện hoặc lập pháp nhân khác ở Việt Nam như là một điều kiện để được cung cấp các dịch vụ số tại Việt Nam. Và cũng cần lưu ý thêm rằng nhiều nước vẫn đang (muốn) đánh thuế lên các công ty đa quốc gia này kể cả chúng không có pháp nhân đại diện ở nước sở tại, như đã nói ở trên.
Do đó, ngoài những giải pháp mà một số nước đã thực hiện nêu ở trên mà Việt Nam có thể tham khảo, một giải pháp khác Việt Nam có thể thực thi được là phối hợp song phương và đa phương với các quốc gia khác thực hiện các dự án chống chuyển lợi nhuận và làm xói mòn cơ sở thuế mà OECD và các nước thuộc nhóm G20 đang thực hiện, có sự tham gia của những nước trong khu vực như Singapore.
Theo đó, các công ty đa quốc gia sẽ phải chuẩn bị một báo cáo gồm các số liệu chủ chốt (doanh thu, lợi nhuận trước thuế, thuế đã trả và số lượng nhân viên) cho tất cả các nước tham gia mà chúng có hoạt động tạo doanh thu. Bản báo cáo này sẽ được cơ quan thuế vụ ở mỗi nước xem xét, đánh giá xem liệu họ đã thu được đủ thuế hay chưa, liệu có tình huống công ty tạo ra nhiều doanh thu và tuyển dụng nhiều nhân viên ở Ấn Độ nhưng lại nộp phần lớn thuế ở Hồng Kông/Singapore hay không?
Những sự phối hợp quốc tế như thế này sẽ buộc các công ty đa quốc gia phải tái cơ cấu lại hoạt động và phân bổ doanh thu và lợi nhuận tại các quốc gia khác nhau, trong đó có Việt Nam, nhằm phản ánh chính xác hơn tương quan giữa doanh thu và lợi nhuận của chúng tại các nước này.n
(1) http://vietbao.vn/Kinh-te/Bo-truong-Tai-chinh-noi-kho-thu-duoc-thue-Facebook-Google/62109117/87/

Sunday 10 December 2017

Giảm biên chế, không thể không mạnh tay (Bài đăng trên TBKTSG, 10/12/2017)



http://www.thesaigontimes.vn/265987/Giam-bien-che-khong-the-khong-manh-tay.htmlGiảm biên chế, không thể không mạnh tay
Phan Minh Ngọc
Song hành cùng câu chuyện ngày càng nóng là bội chi ngân sách và nợ chính phủ tăng liên tục là chuyện “quyết liệt” cắt giảm biên chế để tránh cho ngân sách khỏi nguy cơ phá sản.
Tuy vậy, như một nghịch lý cho đến nay đã trở thành quá nhàm, càng “quyết liệt” cắt giảm biên chế bao nhiêu thì biên chế lại càng phình to thêm bấy nhiêu. Thực tế này một lần nữa được khắc họa rõ nét trong các báo cáo gần đây của Đảng và Chính phủ về tình hình đổi mới, sắp xếp lại bộ máy của hệ thống chính trị.
Một trong những lý lẽ hàng đầu thường được viện dẫn để biện minh cho sự phình to thay vì “xẹp” đi của bộ máy chính trị và hành chính ở Việt Nam là do tính chất (công việc) phức tạp, địa bàn, lĩnh vực quản lý rộng. Tuy vậy, lý lẽ này xem ra rất thiếu cơ sở, nếu chỉ cần so với những nước trong khu vực ở trên những tiêu chí đơn giản.
Chẳng hạn, trước tiên hãy so sánh về số lượng bộ có trong Chính phủ. Ở Nhật, nơi có dân số hơn 126 triệu người (nhiều hơn Việt Nam khoảng một phần ba) cư ngụ trên diện tích hơn 364.000 ki lô mét vuông (lớn hơn Việt Nam 13%), hiện chỉ có 11 bộ, trong khi Việt Nam có 18 bộ (chưa kể bốn cơ quan ngang bộ). Và mặc dù có dân số và diện tích đều lớn hơn đáng kể so với Việt Nam nhưng Nhật chỉ có 43 tỉnh và một “đô” - Tokyo, nhỏ hơn nhiều so với con số 63 tỉnh ở Việt Nam.
Ngay trong mỗi bộ, cơ cấu biên chế của Nhật cũng nhỏ gọn hơn rất nhiều so với của Việt Nam. Mỗi bộ của Nhật gồm có một bộ trưởng, không quá hai thứ trưởng và không quá ba trợ lý bộ trưởng. Điều này được quy định rõ trong Luật Tổ chức Chính phủ của Nhật nên ngay cả những bộ trọng yếu như Ngoại giao, con số định biên cũng không vượt quá những mức quy định này. Nếu lại phải so với Việt Nam thì chắc sẽ không ít người phải suy ngẫm.
Sẽ có ai đó cho rằng lấy Nhật làm ví dụ để so sánh với Việt Nam là khập khiễng vì trình độ phát triển quá chênh lệch. Nhưng chính trong các báo cáo gần đây của Việt Nam cũng có một số tiêu chí cho thấy bộ máy ở Việt Nam quá cồng kềnh nếu so với ngay cả những nước đang phát triển đông dân khác trong khu vực như Ấn Độ, Indonesia và Philippines(1).
Vì vậy, chuyện Việt Nam cần phải tinh gọn bộ máy cũng hiển nhiên như chuyện bộ máy của Việt Nam quá cồng kềnh. Nhìn sang Trung Quốc, nước này năm 1998 đã thông qua một kế hoạch cải tổ hành chính nhằm cắt giảm biên chế trong bộ máy quản lý nhà nước đến một nửa. Kế hoạch này được thực hiện trước hết từ việc giảm mạnh số bộ và cơ quan ngang bộ trong Chính phủ, từ 40 xuống còn 29 và theo đó, số lượng biên chế cũng bị cắt giảm tới gần một nửa. Ngoài việc “hạ cấp” một số bộ chuyên ngành (chủ yếu trong công nghiệp) thành các cục trực thuộc Ủy ban Kinh tế và Thương mại Nhà nước, một số bộ khác được sáp nhập (về chức năng quản lý nhà nước) thành các cục cũng đặt dưới sự quản lý của ủy ban này.
Mặc dù Việt Nam cũng đã, đang có chủ trương và động thái sáp nhập các cơ quan hành chính nhưng điều khác biệt lớn với Trung Quốc là quá trình sáp nhập ở Việt Nam không làm giảm (đáng kể) biên chế. Cán bộ sau sáp nhập vẫn tại vị hoặc được chuyển sang các cơ quan hưởng ngân sách nhà nước khác đã tồn tại hoặc được thành lập mới, nhất là các đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức đoàn thể, hiệp hội. Điều mà Trung Quốc đã thực hiện thành công trong đợt cải cách năm 1998 là đưa ra lộ trình cắt bao cấp ngân sách cho nhiều trong số những cơ quan này trong ba năm (với một số ngoại lệ nhỏ). Ví dụ, Hiệp hội Điện lực Trung Quốc được chuyển đổi từ một tổ chức hưởng ngân sách sang tổ chức phi chính phủ lấy ngân quỹ hoạt động từ những hội viên “có điều kiện”. Tương tự, nhiều viện nghiên cứu, ứng dụng cũng đã (buộc phải) tự đứng vững trên đôi chân của mình và cắt giảm mạnh số lượng nhân viên. Ngay cả Trung tâm Thông tin Nhà nước cũng phải tự tìm kiếm thu nhập để trang trải cho bộ máy và các hoạt động của mình.
Cải cách trong các cơ quan đảng, đoàn thể cũng diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc, đặc biệt ở địa phương. Ví dụ, tỉnh Hồ Bắc đã xóa bỏ Hội nghị Hiệp thương chính trị ở cấp thị xã, thị trấn. Số lượng ủy viên đảng bộ giảm từ 15 người còn ba người bí thư đảng ủy kiêm luôn chủ tịch ủy ban nhân dân.
Kinh nghiệm cải tổ của Trung Quốc cho thấy điều không thể thiếu là quyết tâm lớn của từ người đứng đầu đảng, nhà nước đến cấp cơ sở, được đặt trước sức ép giảm biên hay... “vỡ nợ”. Những giải pháp mà nước này thực hiện như sáp nhập, hợp nhất; tư nhân hóa, cắt bỏ bao cấp ngân sách cho các đơn vị sự nghiệp công lập, các hiệp hội, đoàn thể; nhất thể hóa các cơ quan đảng và chính quyền; đặt ra các giới hạn chặt chẽ về biên chế, số lượng cơ quan, đơn vị trực thuộc thụ hưởng ngân sách... là những giải pháp đã biết, đã bàn hoặc đã làm (thử nghiệm) ở Việt Nam. Điều thiếu và yếu ở Việt Nam là một quyết tâm, nghiêm túc và mạnh tay thực hiện, thay vì trù trừ, lo ngại về hậu quả kinh tế, xã hội.
(1) http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/1-vu-co-den-19-ham-vu-pho-413768.html

Thursday 7 December 2017

Giảm thiểu tín dụng ngoại tệ (Bài đăng trên CafeF, 7/12/2017)

http://cafef.vn/hien-ke-lam-giam-thieu-tin-dung-ngoai-te-20171207165131209.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã theo đuổi mục tiêu chống đô la hóa và giảm thiểu tín dụng bằng ngoại tệ từ nhiều năm nay với những giải pháp phần nhiều mang tính hành chính như thắt chặt đối tượng và điều kiện để được vay bằng ngoại tệ, giảm huy động tiết kiệm bằng ngoại tệ bằng việc hạ lãi suất tiết kiệm ngoại tệ, chuyển sang quan hệ mua – bán ngoại tệ mang tính thương mại đơn thuần…Nhưng kết quả trên thực tế vẫn còn khá hạn chế, thể hiện ở tín dụng ngoại tệ không giảm, thậm chí còn tăng mạnh hơn trong một số thời điểm. Ví dụ, theo ước tính của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, tín dụng ngoại tệ đến tháng 10 năm nay đã tăng 11,5% so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm 2016 chỉ tăng 4,4%).
Thực tế trên cho thấy cần phải có thêm những giải pháp mang tính kinh tế lên cả hai phía ngân hàng thương mại (NHTM) và khách hàng vay vốn nhằm hạn chế tín dụng ngoại tệ.
Về phía NHTM, kết quả nghiên cứu thực chứng của một số nghiên cứu quốc tế cho thấy yếu tố làm tăng xu hướng cho vay bằng ngoại tệ của các NHTM trước tiên là khả năng huy động tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ từ khách hàng (chứ không phải là từ huy động từ thị trường bán buôn ngân hàng, gồm các tổ chức chính phủ, doanh nghiệp lớn và tổ chức tài chính, tín dụng khác). Phát hiện này cho thấy các chính sách vĩ mô đáng tin cậy có tác dụng khuyến khích khách hàng gửi tiết kiệm bằng nội tệ thay vì ngoại tệ đóng vai trò quan trọng trong việc chống đô la hóa, vay mượn bằng ngoại tệ.
Thành công trong công cuộc chống đô la hóa ở các nước Mỹ La tinh nhờ vào xây dựng các cơ chế vĩ mô khuyến khích vay mượn bằng nội tệ, gồm cơ chế tỷ giá linh hoạt và lạm phát mục tiêu, là một minh họa rõ nét cho tác động tích cực của các chính sách vĩ mô hướng đến giảm thiểu việc người dân gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ nhờ đó thu hẹp nạn đô la hóa tràn lan các nước này.
Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương lựa chọn giải pháp mang tính hành chính là cấm hoặc thắt chặt quy chế cho vay bằng ngoại tệ thì việc này thậm chí có tác dụng ngược là làm giảm dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng ra nền kinh tế, ít nhất là trong ngắn hạn. Vì, với các NHTM lúc đó, đẩy mạnh cho vay bằng nội tệ không phải là giải pháp thay thế cho việc không được cho vay bằng ngoại tệ nữa. Các trường hợp ở Ukraine và Belarus, nơi các khoản cho vay bất động sản hoặc bán lẻ bằng ngoại tệ bị cấm, cho thấy tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng thực tế đã giảm mạnh sau khi việc cho vay bằng ngoại tệ này bị cấm.
Một giải pháp khác có thể làm các NHTM tự hạn chế cho vay ngoại tệ là ngân hàng trung ương yêu cầu các NHTM trích lập dự trữ bắt buộc không hưởng lãi cho các khoản huy động ngoại tệ hoặc tăng trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản tín dụng ngoại tệ của họ. Những giải pháp loại này sẽ làm tăng chi phí cho vay bằng ngoại tệ của các NHTM, buộc họ phải chào lãi suất cao hơn cho các khách hàng muốn vay bằng ngoại tệ, từ đó làm giảm tính hấp dẫn của các khoản vay bằng ngoại tệ một cách tương đối so với khoản vay bằng nội tệ.
Về phía khách hàng đi vay, việc NHNN thắt chặt các quy định mang tính hành chính về, ví dụ, đối tượng được vay ngoại tệ (chẳng hạn chỉ các doanh nghiệp xuất khẩu có doanh thu bằng ngoại tệ mới được vay bằng ngoại tệ) có kết quả hiển nhiên là hạn chế việc cho vay bằng ngoại tệ tràn lan cho cả đối tượng không thuộc diện ưu tiên, có doanh thu hoàn toàn bằng nội tệ (hoặc chỉ một phần bằng ngoại tệ). Tuy nhiên, do số lượng doanh nghiệp được phép vay vốn bằng ngoại tệ vẫn đáng kể nên sự thắt chặt này của NHNN không có tác dụng làm giảm lượng vốn vay bằng ngoại tệ nếu các doanh nghiệp này vẫn cứ “thích” và tăng cường vay bằng ngoại tệ một cách hợp pháp.

Các giải pháp hữu hiệu trong trường hợp này cũng sẽ là các giải pháp kinh tế, làm cho việc vay mượn của các doanh nghiệp này bằng ngoại tệ trở nên rủi ro hơn, tốn kém hơn, không còn quá hấp dẫn, có lợi hơn là vay bằng nội tệ.

Giải pháp thứ nhất là cần để tỷ giá thực biến động linh hoạt hơn (thay vì làm nó ổn định như hiện nay). Doanh nghiệp vay ngoại tệ thường với mặc định rằng tỷ giá nội tệ sẽ tăng lên (nội tệ yếu đi) trong tương lai. Vì doanh nghiệp xuất khẩu cần phải chuyển đổi một phần vốn vay ngoại tệ ra tiền đồng để thực hiện các giao dịch trong nước (trả lương, thanh toán hợp đồng với nhà cung cấp trong nước…) nên khi nội tệ yếu đi, rõ ràng doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ sẽ được lợi.

Nhưng nếu tỷ giá nội tệ không chỉ có tăng lên một chiều mà nhiều lúc sẽ (được ngân hàng trung ương điều tiết) giảm đi khi, ví dụ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp chảy vào mạnh. Lúc này, doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ tuy được lợi nhờ lãi suất vay thấp hơn so với khi vay bằng nội tệ nhưng họ lại bị thiệt vì thu được ít nội tệ hơn khi chuyển đổi khoản vay ngoại tệ này. Nói cách khác, khi tỷ giá biến động mạnh hơn theo hướng bất định, nó sẽ làm giảm tính hấp dẫn của việc vay vốn bằng ngoại tệ.

Một giải pháp khác làm giảm tính hấp dẫn của việc vay ngoại tệ là làm giảm biến động của lạm phát thông qua việc đặt ra lạm phát mục tiêu. Khi lạm phát và kỳ vọng lạm phát ổn định, ở mức thấp, chênh lệch lãi suất vay vốn nội tệ và ngoại tệ sẽ bị thu hẹp lại. Lạm phát và kỳ vọng lạm phát ổn định cũng làm tăng biến động của tỷ giá theo cả hai chiều chứ không chỉ có một chiều theo hướng tăng lên. Hai yếu tố này kết hợp với nhau càng làm giảm tính hấp dẫn của việc vay vốn bằng ngoại tệ so với bằng nội tệ.


Tóm lại, thay vì các biện pháp cấm đoán, hạn chế mang tính hành chính vốn chỉ có tác dụng hữu hạn, việc kết hợp tốt các giải pháp mang tính kinh tế áp dụng với cả NHTM và khách hàng được pháp vay ngoại tệ sẽ làm giảm thiểu một cách hữu hiệu tín dụng ngoại tệ trong nền kinh tế.

Saturday 2 December 2017

Sửa quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng: Sửa rồi liệu có sửa nữa? (Bài đăng trên CafeF, 3/12/2017)

http://cafef.vn/sua-quy-dinh-ve-quan-ly-hoat-dong-kinh-doanh-vang-sua-roi-lieu-co-sua-nua-20171203090211283.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Dự thảo có một số nội dung chính đáng quan tâm, cần được xem xét kỹ thêm trước khi thông qua.

Sẽ phản ứng như thế nào?

Theo giải thích của NHNN, hiện nay, thị trường vàng đã có chuyển biến tích cực, vàng miếng không còn hấp dẫn như trước, doanh số giao dịch mua, bán vàng miếng của toàn hệ thống giảm, sức mua vàng trong dân tiếp tục giảm. Với diễn biến tương đối thuận lợi này, việc giảm thiểu các quy định về hồ sơ, thủ tục điều chỉnh Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng là hợp lý nhằm giảm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp, xã hội, thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.

Như vậy, có thể hiểu rằng một trong những lý do chính để NHNN sửa đổi Nghị định trên theo hướng nới lỏng điều kiện kinh doanh vàng là do vàng miếng không còn “nóng”, lên cơn sốt như trước đây nữa. Nếu đúng vậy, nếu sau này thị trường vàng miếng (thường xuyên) lên cơn nóng sốt, NHNN sẽ phải một lần nữa sửa đổi Nghị định sửa đổi (hiện đang là dự thảo) để dập cơn sốt vàng?

Nếu câu trả lời cho câu hỏi trên là đúng, thì có nghĩa là NHNN sẽ “lội ngược dòng”, làm tăng chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp, cho xã hội, và cũng không phù hợp với tinh thần kiến tạo của Chính phủ hiện nay. Sở dĩ nói các chi phí mà NHNN tạo thêm ra cho việc kinh doanh vàng là chi phí không cần thiết bởi chính NHNN tự thấy các điều kiện kinh doanh vàng trong Nghị định 24 là không cần thiết như nêu trên nên mới phải soạn dự thảo để bãi bỏ, sửa đổi theo hướng đơn giản hóa.

Nếu câu trả lời là không, điều này có thể được hiểu rằng NHNN đã có thái độ khá “cởi mở” với kinh doanh vàng (miếng), hầu như coi vàng cũng chỉ như là một loại hàng hóa khác, không cần phải có (nhiều) điều kiện kinh doanh đặc thù gây khó dễ như trước đây.

Vì vàng vẫn là một loại hàng hóa (đặc biệt), chịu sự chi phối của quy luật cung-cầu có sự liên thông chặt chẽ với thị trường thế giới nên trong tương lai không thể thể tránh khỏi khả năng sẽ xuất hiện lại những cơn sốt nóng của thị trường vàng trong nước. Lúc đó, NHNN chọn lựa phản ứng nào trong hai phản ứng nói trên cũng đều là lựa chọn khó khăn cho chính cơ quan này. Nếu thắt chặt thì, như đã nói, sẽ làm “tổn thương” hình ảnh của NHNN. Nếu NHNN không thắt chặt, họ sẽ phải giải trình thế nào với công luận về những tác động tiêu cực của những cơn sốt vàng lên nền kinh tế như họ đã chỉ ra trước đây để lấy đó làm cơ sở cho ra đời Nghị định 24?

Thêm khó khăn cho kinh doanh vàng trang sức

Theo dự thảo, Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) sẽ phải quản lý chất lượng vàng trang sức, mỹ nghệ không chỉ trong lưu thông như Nghị định 24 mà còn trong cả hoạt động sản xuất, nhập khẩu. Như vậy, có thể hình dung doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu vàng nguyên liệu và thành phẩm, bán thành phẩm từ nay sẽ phải thực hiện các yêu cầu, quy định của và “đón tiếp” thêm các đoàn thanh, kiểm tra từ Bộ KHCN. Nói cách khác, việc sản xuất kinh doanh của họ sẽ có thêm nhiều trở ngại, khó khăn hơn.

Bên cạnh đó, tính hợp lý của việc quy định Bộ KHCN quản lý chất lượng vàng trang sức ít nhất là trong sản xuất và nhập khẩu cũng là một điều chưa rõ ràng. Dù có thể lập luận rằng việc quản lý này là để, ví dụ, tránh gian lận tuổi vàng, trọng lượng vàng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Nhưng chẳng lẽ mỗi lần doanh nghiệp nhập vàng nguyên liệu, vàng trang sức thành phẩm, bán thành phẩm, hoặc sản xuất một lô sản phẩm mới họ phải mang mẫu đến cho Bộ KHCN kiểm tra, xác nhận đúng như đơn đặt hàng, chứng nhận của nhà xuất khẩu, và đồng thời phải phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam thì mới được thông quan, mới được lưu thông, tiêu thụ hay sao? Hơn nữa, nếu lo ngại quyền lợi người tiêu dùng bị ảnh hưởng, thì chỉ cần quản lý ở khâu lưu thông, bán hàng đã là quá đủ (thậm chí là quá sức), chứ chưa cần phải truy đến gốc từ nhập khẩu và sản xuất.

Chặn đường doanh nghiệp mới

Dự thảo cũng quy định đối với hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng của doanh nghiệp cần thêm xác nhận của cơ quan thuế về số thuế đã nộp của hoạt động kinh doanh vàng trong 2 năm liền kề trước đó và báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 2 năm liền kề trước đó.

Với quy định như trên, các doanh nghiệp mới thành lập để kinh doanh, mua bán vàng miếng hoặc doanh nghiệp chuyển đổi chức năng và phạm vi hoạt động (sang kinh doanh, mua bán vàng miếng) sẽ bị loại trừ khỏi lĩnh vực này vì không có hoạt động tương ứng trước đó. Nói cách khác, sẽ chỉ còn những doanh nghiệp đang kinh doanh, mua bán vàng miếng (đã tồn tại trong lĩnh vực này ít nhất 2 năm) mới được (tiếp tục) mua bán, kinh doanh vàng miếng. Tức là thị trường vẫn tiếp tục bị chi phối, bóp méo bởi một số ít doanh nghiệp hiện hữu.

Ngoài ra, không rõ mục đích của việc quy định phải có xác nhận nộp thuế và báo cáo tài chính đã kiểm toán để làm gì, nhưng quy định như trên còn thêm điều không rõ ràng, dễ là cái cớ để làm khó doanh nghiệp. Cụ thể là nộp thuế (thuế gì?) phải đến mức tối thiểu là bao nhiêu, kết quả kinh doanh trong báo cáo tài chính phải tốt đến đâu thì mới đáp ứng được yêu cầu để được cấp phép? Liệu doanh nghiệp luôn bị lỗ trong (ít nhất) 2 năm trước có được cấp phép?

Friday 1 December 2017

Quan trọng là minh bạch về mục đích (Bài đăng trên TBKTSG, 2/12/2017)

http://www.thesaigontimes.vn/td/265637/Quan-trong-la-minh-bach-ve-muc-dich.html

Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua có bổ sung điều khoản mới, theo đó quy định các lãnh đạo cấp cao ban quản trị hoặc ban điều hành của tổ chức tín dụng (TCTD) không được kiêm nhiệm, không đồng thời là lãnh đạo của các doanh nghiệp khác bên ngoài TCTD. Mục đích của việc cấm này được cho là nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong hoạt động tín dụng của TCTD.

Quy định của các nước thoáng hơn

Đối chiếu quy định trên với thông lệ thế giới có thể thấy một số khác biệt. Ví dụ, ở Singapore, nhiều ngân hàng cũng quy định rõ trong bộ quy tắc ứng xử của mình là cấm nhân viên ngân hàng được làm thêm việc bên ngoài (outside employment), dù công việc này có được trả lương hoặc thù lao hay không. Nhưng việc cấm đoán này chỉ áp dụng cho một số loại hình công việc bên ngoài cụ thể như tư vấn, giám đốc (kể cả công ty riêng) hoặc các công việc mang tính thương mại bán thời gian hay toàn thời gian.

Ngoài danh sách cấm này, ngân hàng có thể cho phép nhân viên làm thêm một số công việc bên ngoài như là thành viên các hiệp hội, tổ chức phi lợi nhuận, không có hoạt động tạo ra xung đột quyền lợi với ngân hàng...

Ở nhiều nước, nhiều ngân hàng trên thế giới khác, ví dụ như Bank of New York Mellon Corporation hay JPMorgan Chase & Co, lại quy định thoáng hơn về chuyện này. Cụ thể, nhân viên của các ngân hàng này không bị cấm làm việc bên ngoài, miễn là công việc đó không liên quan gì đến, tạo tác động xấu, hoặc gây xung đột quyền lợi với ngân hàng và/hoặc với công việc của người này tại ngân hàng. Đồng thời, công việc bên ngoài này cũng không được ảnh hưởng xấu đến sức khỏe thể chất và tinh thần của nhân viên, làm giảm khả năng làm việc hàng ngày của nhân viên này tại ngân hàng.


Có một điều chung giữa các ngân hàng trên thế giới là nhân viên phải báo cáo trước và xin phép ngân hàng khi có ý định làm việc bên ngoài. Nếu không làm như vậy và khi ngân hàng phát hiện ra thì thường là nhân viên sẽ bị sa thải lập tức. Dẫu vậy, kể cả khi đã báo cáo, xin phép, vẫn có những trường hợp đơn xin phép của nhân viên bị từ chối vì ngân hàng nhận định rằng công việc sẽ làm của nhân viên này có khả năng gây tác động bất lợi cho ngân hàng và/hoặc cho công việc của nhân viên tại ngân hàng.

Như vậy, có thể nói rằng quy định cấm kiêm nhiệm trong Luật các TCTD sửa đổi nói trên ở Việt Nam là quá chặt, cấm tuyệt đối mọi hình thức làm việc của lãnh đạo cấp cao ngân hàng (cũng là một nhân viên ngân hàng) cho một tổ chức, doanh nghiệp bên ngoài mà không có bất cứ một trường hợp ngoại lệ, loại trừ nào mà như ở nước khác thì là được phép.

Quan trọng là minh bạch về mục đích

Có người sẽ lập luận rằng cấm như ở Việt Nam là cần thiết, còn hơn là không cấm, không làm gì. Nhưng tư duy theo lối “không quản được thì cấm” này thì cũng chẳng khác lối tư duy vì dao nhọn có thể được sử dụng thành vũ khí gây nguy hiểm nên cần cấm cầm hoặc sử dụng dao nhọn (khi ra đường).

Điều quan trọng ở đây là minh bạch về mục đích. Với trường hợp cầm hoặc sử dụng dao nhọn, sẽ là được phép nếu người cầm/sử dụng có mục đích chính đáng, chẳng hạn như đang bán hoa quả rong trên đường. Với trường hợp lãnh đạo ngân hàng làm lãnh đạo một công ty, tổ chức khác, nếu việc kiêm nhiệm này được công khai, được chứng minh là không gây phương hại gì đến ngân hàng, tạo xung đột quyền lợi giữa ngân hàng với lãnh đạo này và với công ty bên ngoài, mà ngược lại, còn có ích, đóng góp cho xã hội, thì rõ ràng việc kiêm nhiệm này là vô hại, có thể được phép, được chấp nhận.

Ngược lại, sẽ là một vi phạm nghiêm trọng, cần xử lý bởi không chỉ trong nội bộ ngân hàng mà còn bởi cơ quan thanh tra, giám sát khi sự kiêm nhiệm này bị che giấu, không khai báo hoặc khai báo không trung thực bởi lãnh đạo ngân hàng kiêm nhiệm.

Và cũng sẽ có ý kiến rằng khi lãnh đạo ngân hàng muốn kiêm nhiệm một vị trí lãnh đạo tại một công ty bên ngoài thì dù có phải xin phép ngân hàng, việc xin phép này cũng chỉ là hình thức bởi rốt cuộc người cấp phép lại chính là lãnh đạo này hoặc cấp dưới của vị này.
Đây cũng là một khả năng có thật, nhưng điều quan trọng là việc xin phép này để lại những bằng chứng để bộ phận chức năng nội bộ ngân hàng (như kiểm toán nội bộ, ban giám sát) hay cơ quan chức năng nhà nước có cơ sở để thanh tra, giám sát, ngăn ngừa, tránh phát sinh những cơ hội trục lợi và xử lý sự trục lợi từ sự kiêm nhiệm của lãnh đạo ngân hàng.

Cũng cần lưu ý rằng ở các ngân hàng nước ngoài, các bộ phận chức năng như kiểm toán nội bộ và ban giám sát có quyền lực rất lớn và không một ai kể cả ban lãnh đạo ngân hàng được phép ngoại trừ, không phải thực hiện những quy định tuân thủ mà bộ phận chức năng này đề ra và/hoặc thực thi như với những nhân viên bình thường khác.

Sau cùng, cần lưu ý thêm rằng cả hai hình thức liên quan đến chuyện kiêm nhiệm công việc bên ngoài nêu trên - cấm hoàn toàn hoặc cho phép kiêm nhiệm một cách có điều kiện - đều không giải quyết triệt để được chuyện xung đột lợi ích. Bởi xung đột lợi ích nhiều khi lại nảy sinh từ sở hữu chéo, với những ông chủ giấu mặt đại diện bởi các “hình nhân” chi phối hoạt động của ngân hàng theo hướng có lợi cho mình hoặc doanh nghiệp sân sau của mình.

Nói cách khác, chừng nào còn sở hữu chéo thì chừng đó việc cấm kiêm nhiệm cũng không đảm bảo được tính khách quan, minh bạch trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).