Sunday 30 December 2018

Đẩy lùi tín dụng đen không nên và không chỉ trông chờ vào tín dụng ngân hàng! (Bài đăng trên CafeF, 29/12/2018)

http://cafef.vn/day-lui-tin-dung-den-khong-nen-va-khong-chi-trong-cho-vao-tin-dung-ngan-hang-20181229143550995.chn


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) dự kiến sẽ triển khai gói tín dụng cho vay tín chấp 5.000 tỷ đồng do Agribank triển khai nhằm phục vụ nhu cầu vay cấp bách của người dân nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng nhằm đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, tín dụng đen bùng phát khắp nơi hiện nay.

Lý do đưa ra gói tín dụng này có lẽ là do nhà làm chính sách kỳ vọng người dân sẽ tiếp cận được với lãi suất “hợp lý” (chắc chắn là thấp hơn lãi suất “cắt cổ” lên đến hàng trăm %/năm của tín dụng đen), từ đó thỏa mãn được một phần nhu cầu tín dụng để giải quyết những việc cấp bách của họ mà không phải vướng vào “lưới” tín dụng đen, góp phần đẩy lùi, thu hẹp quy mô tín dụng đen.

Lý do trên, nếu có, là hợp lý. Tuy nhiên, trước tiên, xét đến quy mô gói 5.000 tỷ đồng này so với nhu cầu “vay nóng” của người dân, cho mục đích cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp, có lẽ là không thấm vào đâu. Minh họa cho điều này là chỉ riêng một đường dây cho vay nặng lãi của “Công ty tài chính Nam Long” bị phát giác ở Thanh Hóa tháng 11 vừa qua đã có số tiền giao dịch với khách hàng lên tới 510 tỷ đồng, theo thông tin từ báo chí.

Do đó, về nguyên tắc, nếu muốn dùng tín dụng ngân hàng để chống tín dụng đen thì cần phải tăng quy mô gói tín dụng này lên nhiều lần nữa để đáp ứng mọi nhu cầu tín dụng “nóng” của người dân, làm cho giới cho vay nặng lãi “thất nghiệp”. Ngược lại, nếu không thực hiện được việc này thì tín dụng đen chắc chắn vẫn có đất sống.

Thế nhưng việc dồn vốn ngân hàng cho vay tín chấp là không khả thi, không thỏa đáng bởi không chỉ bởi tín dụng ngân hàng cần được ưu tiên phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh chính đáng, mà còn bởi ngân hàng thương mại không thể “nhắm mắt” cho vay bừa bãi mọi đối tượng, kể cả khi cho vay với lãi suất cao. Dù là để phục vụ mục đích mang tính xã hội cao cả là chống nạn tín dụng đen thì ngân hàng thương mại vẫn phải đặt tính “thương mại” lên hàng đầu, vẫn phải từ chối nhiều khoản cho vay mà họ biết chắc hoặc cảm thấy là không thể thu hồi được, dù là cho người dân với nhu cầu chính đáng.

Mổ xẻ tiếp về nhu cầu tín dụng đen của người dân thì có thể khẳng định rằng không phải nhu cầu nào cũng chính đáng, hợp pháp. Không ít trong số đó được dùng cho những mục đích như đánh bạc, cá cược, thậm chí để cho (đáo hạn) những khoản (cho) vay nóng/nặng lãi khác v.v… Với những mục đích này, giả sử ngân hàng thương mại có phát hiện được thì  họ sẽ (nên) không cho vay. Còn nếu không phát hiện được thì một mục đích tốt đẹp của Nhà nước như vậy sẽ bị lợi dụng, lạm dụng.

Như vậy, có thể thấy trong bất kỳ thời điểm nào, địa phương nào cũng luôn tồn tại nhu cầu tín dụng mà chỉ có thể thỏa mãn được bởi giới cho vay phi chính tắc (không phải là ngân hàng hoặc công ty tài chính có đăng ký kinh doanh hợp pháp). Vì vậy, điều mà Nhà nước cần làm để chống nạn tín dụng đen không phải là lập ra và tăng quy mô các gói tín dụng ngân hàng cho vay tín chấp.

Thay vào đó, giải pháp cần phải mang tính thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước. Theo đó, khuyến khích sự thành lập của các công ty tài chính cho vay tín chấp (hoặc có tài sản thế chấp) có đăng ký kinh doanh và buộc chúng phải công khai mọi thông tin gồm có lãi suất và điều kiện cho vay – là những yếu tố nên để thị trường quyết định và Nhà nước không cần phải can thiệp bằng việc đưa ra, ví dụ, trần lãi suất cho vay tín chấp. Bởi dù có kiên quyết đưa ra áp dụng với thiện ý là tránh cho người đi vay rủi ro bị “cắt cổ” thì bên cho vay vẫn tìm cách “lách” được, thậm chí với sự thông đồng, chấp nhận của bên đi vay do bên đi vay cũng chẳng còn chỗ bấu víu nào khác nữa.

Việc công khai thông tin là quan trọng để tránh cho người vay bị ép vào “thế đã rồi”, buộc phải chấp nhận một cách bất lợi mọi điều khoản đưa ra bởi công ty tài chính khi không được biết rõ những thông tin liên quan lúc ký vào giấy vay tiền. Quy định minh bạch hóa thông tin là thiết yếu và được thực hiện ở nhiều nước. Chẳng hạn, ở Singapore, ngay gần nhà của người viết, có một công ty tài chính cho vay tín chấp đã dán ngay trên cửa ra vào con số 4%/tháng, là mức lãi suất cho vay tín chấp của họ (lưu ý là con số này cao gần gấp đôi lãi suất vay qua thẻ tín dụng áp dụng bởi các ngân hàng tại Singapore; nước này cũng không có quy định trần lãi suất hay tương tự như ở Việt Nam). Tất nhiên là trên các hợp đồng cho vay của họ đều có những thông tin liên quan theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho người vay so sánh và quyết định có vay của họ không. Cảnh sát Singapore thì cũng rất cảnh giác với nạn cho vay nặng lãi, cho vay không phép, nên không hiếm khi người dân sẽ được nhìn thấy biển thông báo dựng bên đường cho biết rằng cảnh sát mới bắt được đối tượng cho vay (tín dụng đen, không phép) ở trong khu vực mình sinh sống.

Đồng thời với việc minh bạch thông tin, các cơ quan thực thi pháp luật cần tăng cường theo dõi và tăng chế tài xử phạt các đối tượng cho vay có những hành động ép buộc người vay một cách bất hợp pháp như đe dọa, quấy rối, khủng bố, dùng vũ lực và nhục hình v.v…, chính là một trong những biểu hiện và hệ lụy của tín dụng đen. Cũng ở Singapore, thỉnh thoảng trên báo chí địa phương có những mẩu tin như ông A, bà B đã bị bắt vì tội quấy rối ai đó liên quan đến cho vay nặng lãi.
Tóm lại, giải pháp thích hợp và bền vững cho tín dụng đen phải là giải pháp dựa vào thị trường đặt dưới sự kiểm soát thích ứng của pháp luật để nhu cầu vay tín chấp của người dân được thỏa mãn chủ yếu bởi người dân khác và các tổ chức tài chính hợp pháp.

Wednesday 26 December 2018

Chính phủ nên quản kinh tế chia sẻ như thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 26/12/2018)

http://cafef.vn/chinh-phu-nen-quan-kinh-te-chia-se-nhu-the-nao-20181226175429245.chn

Hồi tháng 5 năm nay, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo tham vấn dự thảo Đề án mô hình kinh tế chia (KTCS) sẻ để lấy ý kiến hoàn thiện trước khi trình Chính phủ. Đại diện các bộ, ngành, hiệp hội được báo cáo là cũng đã có những góp ý để hoàn thiện dự thảo đề án này.
Đáng lưu ý là dự thảo đề án được dự kiến báo cáo Chính phủ trong tháng 6 (rồi sau đó tháng 8) năm nay, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có thêm thông tin gì mới.
Có thể đoán nhận sự lúng túng, vướng mắc của đề án này do tính chất khá mới mẻ của mô hình KTCS ở Việt Nam. Ở nhiều nước, ngay cả những nước phát triển, nơi sản sinh ra các mô hình KTCS hoạt động đã nhiều năm nay Chính phủ cũng vẫn còn chưa tìm ra một phương hướng ứng xử về chính sách đồng bộ và nhất quán với mọi dạng thức của KTCS.
KTCS, theo cách hiểu chính thống, là một thuật ngữ mô tả việc cho thuê các tài sản riêng cho những người khác thông qua kết nối trên mạng (trực tuyến). Việc cho thuê các tài sản riêng theo kiểu ngang hàng (peer-to-peer, hay P2P) không phải là chuyện gì mới mẻ nhưng đã tăng trưởng nhanh chóng nhờ tiến bộ công nghệ, được phổ biến bởi Internet và các thiết bị thông minh, trở thành một nền công nghiệp. Sự phát triển KTCS trở nên không thể đảo ngược, và song hành bởi cả kỳ vọng lẫn lo ngại, cả lợi ích lẫn rủi ro.
Kỳ vọng và lợi ích
KTCS làm tăng phúc lợi của những bên tham gia nhờ tạo ra các giao dịch mới dựa trên việc sử dụng hiệu quả các tài sản chưa được khai thác hết công suất. Các giao dịch mới này có chi phí giao dịch giảm thiểu nhờ ứng dụng công nghệ thông tin. Người tiêu dùng được hưởng lợi nhờ giá rẻ, nhiều lựa chọn hơn và tiện ích hơn, trong khi người cung cấp tài sản cho thuê thì có thêm thu nhập nhờ chi phí rào cản thâm nhập thị trường thấp hơn.
KTCS cũng có tác dụng phân chia lại thu nhập trong xã hội bằng cách giúp cho người/gia đình có thu nhập thấp có thêm cơ hội để tham gia với tư cách nhà cung cấp. Còn các platform (nền tảng giao dịch) thì được hưởng lợi từ việc thu phí môi giới để người tiêu dùng và nhà cung cấp gặp nhau.
Với các doanh nghiệp, họ có thể hưởng lợi thông qua hiệu ứng thăm dò thị trường và khuyến mãi. Trong giai đoạn khởi đầu, doanh nghiệp tham gia KTCS có cơ hội tung ra các hàng hóa và ý tưởng kinh doanh mới với chi phí thấp. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với doanh nghiệp trong những lĩnh vực như chia sẻ nhân lực, lưu trú, và gọi vốn cộng đồng.
Ngoài lợi ích kinh tế, KTCS còn được kỳ vọng cắt giảm chi phí môi trường. Ví dụ, các dịch vụ chia sẻ ô tô sẽ làm giảm ô nhiễm môi trường nhờ sử dụng hiệu quả hơn số xe hiện có (thông qua ghép chuyến đi…). Về cơ bản, KTCS trong mọi lĩnh vực đều giúp bảo vệ môi trường nhờ tiết kiệm các nguồn lực hữu hạn do nâng cao năng lực khai thác các tài sản hiện hữu.
Tác động tiêu cực và rủi ro
Một trong những vấn đề nổi cộm của KTCS là nó xung đột với các ngành kinh doanh hiện tại. Do các giao dịch của KTCS thay thế một số giao dịch hiện hữu trong các dịch vụ tương đương nên KTCS sẽ chèn ép các doanh nghiệp liên đới. Điều này được thể hiện rõ nhất trong ngành taxi và lưu trú, bị cạnh tranh mạnh bởi dịch vụ chia sẻ ô tô và phòng.
Tuy nhiên, sự mất mát thị phần của những doanh nghiệp truyền thống không chỉ tại bởi KTCS. Mọi phát kiến mới đều tác động tiêu cực đến những ngành truyền thống. Điều đáng nói ở đây là tác động tiêu cực này sẽ là không thỏa đáng nếu các quy chế hiện hành không được áp dụng một cách bình đẳng với các thực thể tham gia KTCS như được áp dụng với các doanh nghiệp truyền thống.
Ví dụ, nhiều chủ nhà tham gia platform chia sẻ phòng không đăng ký kinh doanh nên không bị chế tài bởi các quy định về thuế và an toàn đang được áp dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống trong ngành lưu trú.
Do đó, có không ít người cho rằng KTCS không phải là một phát minh đặc biệt. Đây chẳng qua chỉ là một cách thức để lách luật, khai thác những lỗ hổng trong luật pháp hiện hành nên thậm chí có thể còn làm suy giảm khối lượng giao dịch tổng thể, dẫn đến làm giảm phúc lợi xã hội. Do đó, Chính phủ cần đảm bảo đối xử bình đẳng khi thiết lập các chính sách quản lý KTCS.
Ngoài ra, do phần lớn giao dịch của KTCS là các giao dịch không giáp mặt cho những dịch vụ không được tiêu chuẩn hóa, diễn ra giữa những cá nhân bất định nên có một số rủi ro. Nhìn chung, do thông tin bất đối xứng nên người tiêu dùng khó mà biết trước được chất lượng dịch vụ cung cấp cho mình trong khi nhà cung cấp dịch vụ thì khó mà biết và theo dõi người tiêu dùng.
Điều này dẫn đến rủi ro đạo đức và, trong một số lĩnh vực, gây ra sự phá hoại tài sản, hoạt động tội phạm (ăn cắp, xâm hại tình dục…), tai nạn giao thông…
Thêm nữa, khi có vụ việc gì đó xảy ra thì giải quyết không dễ dàng chút nào bởi nền tảng thể chế hiện thời không đưa ra được các giải pháp cụ thể như bảo hiểm và bảo vệ của pháp luật. Chữ tín của các platform cũng là vấn đề khi chúng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tiền thanh toán và trao đổi thông tin.
Phương hướng chính sách
Như trên đã cho thấy KTCS sẽ mang lại lợi ích toàn cục nếu các rủi ro được khắc chế hữu hiệu. Do đó, Chính phủ phải thiết lập nền tảng thể chế phù hợp cho nhiệm vụ này.
Cụ thể, tuy nhà cung cấp của KTCS là các cá nhân không chuyên và chỉ cung cấp dịch vụ tạm thời nhưng luật pháp hiện hành vẫn có xu hướng coi họ là những nhà cung cấp chuyên nghiệp. Do đó, nếu buộc các nhà cung cấp không chuyên này áp dụng quy chế hiện hành vốn được áp dụng cho các doanh nghiệp truyền thống thì sẽ gây khó cho họ, buộc họ đứng ngoài thị trường, làm hủy hoại KTCS, giảm phúc lợi xã hội.
Nhưng để tránh rủi ro các nhà cung cấp trong KTCS cạnh tranh thị phần với doanh nghiệp truyền thống thì Chính phủ cần bảo đảm để nhà cung cấp truyền thống và KTCS cạnh tranh một cách bình đẳng.
Cân nhắc cả hai yếu tố cạnh tranh bình đẳng và đặc tính của KTCS, Chính phủ cần đặt ra các giới hạn định lượng. Theo đó, nhà cung cấp KTCS nào vượt quá định lượng này thì cần được coi là "chuyên nghiệp, thường xuyên" và phải chịu chế tài bởi pháp luật hiện hành hiện đang được áp dụng cho các doanh nghiệp truyền thống.
Những nhà cung cấp KTCS còn lại thì sẽ được áp dụng các quy chế nới lỏng hơn. Các nhà cung cấp KTCS nếu muốn được áp dụng các quy chế lỏng hơn cần phải giảm khối lượng giao dịch, và ngược lại.
Với nguyên tắc này, ta có thể hiểu tại sao ở nhiều thành phố trên thế giới, trong lĩnh vực như chia sẻ phòng, lại có việc hạn chế về số ngày tối đa mà khách đặt phòng có thể thuê phòng trên Airbnb.
Nhờ vậy, chủ nhà cho thuê dưới định lượng sẽ được miễn thuế thu nhập đánh trên doanh thu cho thuê, được hưởng quy chế nới lỏng về đăng ký… so với những doanh nghiệp cho thuê bất động sản thông thường.
Đương nhiên là quy chế dựa trên hạn mức định lượng có những khó khăn nhất định. Cụ thể, nhà quản lý cần biết thông tin về lượng giao dịch của nhà cung cấp dịch vụ KTCS. Tuy nhiên, nhà cung cấp dịch vụ thường có xu hướng báo cáo thấp đi lượng giao dịch, còn nhà quản lý thì khó mà biết được báo cáo nào là gian dối.
Để đối phó tình trạng này thì một số thành phố đã phải, ví dụ trong lĩnh vực cho thuê bất động sản, cho người giả làm người thuê các bất động sản của những nhà cung cấp có nghi vấn và tiến hành các cuộc kiểm tra đột xuất.
Vì vậy, để áp dụng thành công quy chế dựa trên định lượng thì Chính phủ phải tập trung quản lý các platform vì các platform này nắm mọi thông tin về các giao dịch chia sẻ và có ít động cơ báo cáo thấp đi lượng giao dịch. Chính phủ có thể yêu cầu các platform định kỳ nộp báo cáo về khối lượng giao dịch thay cho nhà cung cấp dịch vụ.
Chính phủ cũng có thể yêu cầu các platform tạo ra các dịch vụ trực tuyến để nhà cung cấp dịch vụ đăng ký trước khi tạo lập giao dịch chia sẻ hoặc những dịch vụ đóng thuế tiêu thụ và thuế thu nhập cho mỗi giao dịch thành công. Những việc này sẽ giúp cắt giảm chi phí hành chính và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước với KTCS.
Tiếp đó, rủi ro trong giao dịch KTCS sẽ được giảm đi nhờ cơ chế thị trường, chẳng hạn các platform tự nhận thấy phải tạo lập được môi trường đáng tin cậy với rủi ro giao dịch thấp để thu hút người sử dụng.
Thực tế cho thấy nhiều platform đã tự nguyện để điều tiết người tiêu dùng và nhà cung cấp dịch vụ chia sẻ nhằm giảm thiểu rủi ro giao dịch thông qua nhiều công cụ ví dụ như nhận xét, xếp hạng uy tín, kiểm định cơ sở trước khi diễn ra giao dịch bởi tự bản thân platform hay bởi một bên thứ ba.
Nhờ vậy, Chính phủ chỉ cần đóng một vai trò thứ yếu, tập trung vào quản lý giám sát các platform chứ không phải là các thành viên tham gia.

Sunday 23 December 2018

Nỗi lo “người giỏi đi hết, lấy ai làm việc”: Hãy để thị trường lên tiếng (Bài đăng trên TBKTSG, 23/12/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/td/283114/noi-lo-nguoi-gioi-di-het-lay-ai-lam-viec-hay-de-thi-truong-len-tieng-.html

Cái tin “nóng” Nhật Bản mở rộng cửa đón nhận lao động có tay nghề của Việt Nam và cho phép họ có thể cư trú dài hạn cùng gia đình đã làm dấy lên nỗi lo về nạn chảy máu chất xám, Việt Nam có thể mất người giỏi, gây thiếu hụt nguồn nhân lực.

Nỗi lo này, xét về bề nổi, là hoàn toàn dễ hiểu, dựa trên nguyên tắc “nước chảy chỗ trũng”. Điều đáng nói hơn là từ nỗi lo này có thể dẫn đến khả năng siết lại dòng chảy xuất khẩu lao động này với lý do không thể hợp lý hơn là để ngăn ngừa việc thiếu hụt lao động ở Việt Nam trong tương lai, đặc biệt là lao động có tay nghề cao, đảm bảo nguồn lực phát triển kinh tế đất nước.
Khả năng siết lại như trên thực ra là không cần thiết, và thậm chí là có hại.
Trước tiên, thử đặt giả thiết nếu Nhật không mở rộng việc thu hút lao động Việt Nam một cách chính tắc như chính sách mới đây của họ, thì Việt Nam vẫn chỉ có thể gửi lao động sang dưới dạng thực tập sinh, tu nghiệp sinh như trước đây với chế độ đãi ngộ thấp, nhập nhằng. Lúc đó, số lượng người lao động sang Nhật vẫn sẽ hạn chế, tác động tích cực về kinh tế từ việc này (kiều hối, cải thiện kỹ năng người lao động...) cũng theo đó mà không nhiều. Về phía Việt Nam, người lao động có tay nghề vẫn có khả năng bị thất nghiệp, hoặc hưởng lương thấp, hoặc không có cơ hội thăng tiến, trọng dụng...
Bởi vậy, khi Nhật mở cửa thị trường cho lao động Việt Nam thì mọi thứ đều trở nên tốt hơn, không chỉ với người lao động mà còn với nền kinh tế Việt Nam nói chung. Điều lo lắng còn lại chỉ là chuyện nếu ai cũng đi thì phải chăng Việt Nam sẽ thiếu lao động làm được việc? Và nếu vậy thì điều này có thực sự là điều xấu với Việt Nam?
Giả sử Nhật có khả năng thu hút hàng vạn lao động Việt Nam ra đi hàng năm. Và điều này được tiếp diễn năm này qua năm khác thì đương nhiên là làm cho nguồn cung lao động Việt Nam trở nên khan hiếm hơn (so với cầu trong nước), do đó lao động trở nên cao giá hơn, được “tận dụng” tốt hơn theo nghĩa tích cực.
Nhưng do chi phí lao động trong nước tăng lên và ngày càng khó kiếm lao động có kỹ năng theo yêu cầu nên doanh nghiệp trong nước buộc phải dần chuyển hướng sang những ngành nghề thâm dụng vốn và công nghệ hơn là tiếp tục sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề thâm dụng lao động (dù là lao động có kỹ năng) để tiếp tục tồn tại và phát triển. Quá trình này cũng chính là quá trình tái cơ cấu và đưa nền kinh tế lên những nấc thang phát triển cao hơn, giúp Việt Nam thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình.
Cần lưu ý là sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế nói trên không giống như sự chuyển biến của nền kinh tế trong thời đại trí tuệ nhân tạo và cách mạng công nghiệp 4.0, Lý do là vì, sự chuyển biến khi nguồn lực lao động được sử dụng tốt (nhờ xuất khẩu lao động) hơn sẽ giúp giảm thiểu nạn thất nghiệp, nâng cao phúc lợi cho người lao động, trong khi, ngược lại, sự chuyển biến gây ra bởi máy móc tự động hóa vẫn được nhìn nhận có khả năng làm gia tăng nạn thất nghiệp và giảm sút tiền lương của người lao động.
Xu hướng co kéo trên sẽ tiếp tục cho đến thời điểm cân bằng tương đối, theo đó mức giá mà doanh nghiệp trong nước sẵn sàng trả cho lao động có tay nghề trở nên cạnh tranh được với giá mà các doanh nghiệp tại Nhật có thể trả cho lao động Việt Nam. Tại thời điểm đó, không chỉ quá trình xuất khẩu lao động với số lượng đáng kể sẽ chấm dứt mà thậm chí còn diễn ra xu hướng ngược lại. Tức là, ngày càng có nhiều lao động Nhật sang Việt Nam làm việc so với tình trạng khiêm tốn như hiện tại (nhưng chắc chắn chuyện này không phải là viễn tưởng nếu quan sát những gì đang diễn ra với lao động Hàn Quốc ở Việt Nam).
Tất nhiên quá trình chuyển biến trên có thể chỉ thuần túy là lý thuyết nhưng có một điều có thể khẳng định được là việc xuất khẩu lao động với quy mô lớn sang Nhật (hoặc bất cứ một thị trường nào khác) sẽ là tác nhân tích cực cải cách, làm gia tăng tính năng động và cạnh tranh của thị trường lao động Việt Nam, là tiền đề dẫn đến những thay đổi quan trọng khác trong nền kinh tế theo hướng tích cực.
Và một trong những nguyên tắc xương sống trong những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia, đó là cam kết tự do hóa dòng chảy lao động có tay nghề.

Saturday 22 December 2018

Thận trọng hơn với các báo cáo triển vọng kinh tế (Bài đăng trên TBKTSG, 21/12/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/283101/than-trong-hon-voi-cac-bao-cao-trien-vong-kinh-te.html

Một số tổ chức quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra các đánh giá và dự báo về triển vọng kinh tế trong ngắn và trung hạn (đến 2020) của Việt Nam. Những báo cáo này là nguồn tham khảo chính sách và định hướng rất có trọng lượng do uy tín của các tổ chức phát hành. Tuy vậy, bên cạnh những phân tích và đánh giá xác đáng và có giá trị, các báo cáo này vẫn không tránh khỏi có những điểm yếu nên đòi hỏi người đọc phải biết chắt lọc thông tin và thận trọng hơn với những dự báo trong đó.

Để làm rõ hơn vấn đề trên, trong bài này, tác giả sử dụng chuỗi báo cáo định kỳ cập nhật kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương do WB ấn hành để minh họa.
Trước tiên, bảng 1 so sánh tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam do Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố (đã chỉnh sửa và cập nhật gần đây) với dự báo tăng trưởng mà WB đưa ra trong chuỗi báo cáo nêu trên. Lưu ý thêm là ở đây tác giả đã sử dụng báo cáo phát hành định kỳ vào tháng 10 hàng năm để đảm bảo rằng dự báo của WB đã được sửa đổi và cập nhật sát nhất với diễn biến trên thực tế của nền kinh tế Việt Nam trong năm báo cáo.
Điều có thể thấy từ bảng 1 là sự sai lệch đáng kể giữa dự báo với hiện thực, lên đến 0,6 điểm phần trăm (tức là chiếm đến khoảng 10% của tốc độ tăng trưởng GDP).
Điểm đáng lưu tâm tiếp theo là về phần nêu thực trạng và triển vọng của nền kinh tế Việt Nam. Báo cáo do WB phát hành tháng 10 năm nay ở đoạn nói về củng cố tài khóa (fiscal consolidation) nhận định rằng đã có “sự điều chỉnh cắt giảm chi ngân sách dẫn đến thâm hụt ngân sách được thu hẹp còn 4,6% GDP năm 2017. Trong nửa đầu năm 2018, Chính phủ tiếp tục kiềm chế tăng trưởng chi tiêu để bù đắp cho thu (ngân sách) tương đối yếu”.

Thực tế, theo số liệu hàng quí trong bảng 2 từ năm 2017 đến nay của TCTK (mặc dù rất bất thường khi thâm hụt ngân sách đứng ở mức rất thấp, kể cả cho cả năm 2017, so với con số do Bộ Tài chính báo cáo), thâm hụt ngân sách qua các quí của năm 2018 không có dấu hiệu gì là co lại, thậm chí là ngược lại. Do chi ngân sách tiếp tục tăng mạnh (chứ không phải là tiếp tục bị “kiềm chế” như WB nhận định) nên thâm hụt ngân sách trong năm 2018 vẫn theo đúng xu hướng của năm 2017 là tăng dần qua các quí, dù là so với quí trước hoặc là so với GDP theo giá hiện hành.
Về triển vọng trung hạn của Việt Nam, WB nhận định là “đã cải thiện hơn nữa” (nguyên văn: “Vietnam’s medium-term outlook has improved further”). Nhưng mặt khác, dù đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam lên 6,8% cho năm 2018 từ mức 6,5% trong dự báo trước đó của mình, WB lại dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng chậm lại đáng kể trong năm 2019 và 2020 (tương ứng là 6,6% và 6,5%). Như thế có thể thấy WB có sự mâu thuẫn trong nhận định về triển vọng tăng trưởng của Việt Nam. Nói cách khác, lẽ ra WB phải đưa ra một dự báo triển vọng thận trọng và chính xác hơn cho Việt Nam trong trung hạn, chẳng hạn như “triển vọng trong trung hạn của Việt Nam sẽ ổn định với tốc độ tăng trưởng GDP giảm nhẹ so với (tốc độ dự báo cho) năm nay”.
Cũng trong phần nói về triển vọng, WB cho rằng việc củng cố tài khóa sẽ kiềm chế nợ công trong trung hạn. Nhận định này có thể được diễn giải là kiềm chế/cắt giảm chi tiêu công (chi ngân sách) sẽ làm giảm việc vay nợ của Chính phủ. Tuy nhiên, như đã chỉ ra ở trên, chi ngân sách không có dấu hiệu được kiềm chế rõ ràng nên nếu thâm hụt ngân sách (tính theo phần trăm của GDP) có cải thiện thì sự cải thiện này chủ yếu là do tăng thu, tận thu (qua việc tăng thuế các loại), chứ không phải là do cắt giảm chi tiêu. Do chi ngân sách không giảm trong khi sự cải thiện thu ngân sách từ việc tận thu cũng chỉ có hạn nên không có cơ sở gì để nhận định rằng nợ công sẽ được kiềm chế một cách hiệu quả trong trung hạn như WB nhận định.
Về những giải pháp chính sách liên quan đến tài khóa, WB khuyến nghị Chính phủ cần có chiến lược toàn diện để tăng cường hiệu quả chi tiêu và duy trì những nguồn thu trung hạn có khả năng huy động để giảm hơn nữa thâm hụt ngân sách. Một mặt, đây là những khuyến nghị tiêu chuẩn, xác đáng. Mặt khác, khuyến nghị này một lần nữa cho thấy chi ngân sách vẫn là một lĩnh vực “có vấn đề” nên trừ khi Chính phủ làm được như khuyến nghị của WB thì mới mong có được sự giảm thâm hụt ngân sách, và, do đó, giảm nợ công một cách bền vững như WB đã nhận định.
Nói cách khác, chuyện kiềm chế nợ công và thâm hụt ngân sách chỉ là chuyện của tương lai, có thành hiện thực hay không thì phụ thuộc vào một số điều kiện, chứ không phải là đã và đang diễn ra, thành một xu hướng, như WB nhận định và kỳ vọng.

Tuesday 18 December 2018

Làm thế nào để phần lớn người dân sở hữu được nhà ở nơi đắt đỏ như Singapore? (Bài đăng trên CafeF, 19/12/2018)

http://cafef.vn/lam-the-nao-de-phan-lon-nguoi-dan-so-huu-duoc-nha-o-noi-dat-do-nhu-singapore-20181219101649291.chn

Nhắc đến Singapore chúng ta thường nghĩ đến điều gì trước tiên? Một thành phố xanh, sạch, đẹp? Đúng, nhưng chưa đủ. Quốc gia này còn được biết đến với giá cả bất động sản thuộc nhóm đắt đỏ nhất không chỉ ở châu Á mà còn trên thế giới.

Biểu xếp hạng dưới đây so sánh giá trung bình một m2 của một căn hộ tại vị trí trung tâm của một số thành phố lớn trên thế giới. Giá một m2 căn hộ ở Singapore là 16.293 USD/m2 (gần 380 triệu đồng/m2), xếp hạng thứ 3 thế giới về độ đắt đỏ, chỉ sau Hong Kong và London. Giá này cao hơn 7 lần so với giá nhà ở Sài Gòn (2.267 USD/m2) hay Hà Nội (2.120 USD/m2) trong cùng biểu xếp hạng.
Giá trung bình 1m2 của một căn hộ tại trung tâm các thành phố lớn trên thế giới
Làm thế nào để phần lớn người dân sở hữu được nhà ở nơi đắt đỏ như Singapore? - Ảnh 1.
Nguồn: Numbeo.com
Với giá cả như vậy, một căn hộ 3 phòng ngủ ở Singapore thường có giá trên 1 triệu USD. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây có thể là giá của các căn hộ do các nhà phát triển bất động sản tư nhân xây dựng. Những căn hộ do Chính phủ xây dựng đại trà (nói thêm ở dưới đây) có giá rẻ hơn nhiều (chủ yếu nhờ những ràng buộc chặt chẽ về điều kiện sở hữu và sang nhượng). Dẫu vậy, giá của những căn hộ 90m2 với 3 phòng ngủ ở những khu vực trung tâm do Chính phủ xây dựng, được bán trên thị trường resale (thứ cấp) cũng lên đến 400-500 nghìn USD.
Giá bất động sản ở Singapore cao không chỉ vì diện tích hạn chế mà còn bởi thu nhập của người dân nơi đây cũng thuộc tốp đầu của thế giới. Theo xếp hạng về bình quân GDP/đầu người của WB thì Singapore đứng thứ 10 vào năm 2017 với mức 57.714 USD/người (Việt Nam là 2.343 USD/người). Trong khi đó, theo SingStat, tổng thu nhập trung vị (chính giữa) của gia đình Singapore đạt 108.276 SGD/năm (tương đương 78,5 nghìn USD hoặc 1,8 tỷ đồng).
Bất chấp giá cả đắt đỏ như vậy, Singapore lại là nước có tỷ lệ sở hữu nhà cao hàng đầu của thế giới. Theo Wikipedia, tỷ lệ sở hữu nhà của Singapore là 90,7% tính theo tỷ lệ người chủ sở hữu trên tổng số dân cư trú trong một khu vực nhất định. Tỷ lệ này cao thứ hai trong tổng số 50 nước xếp hạng, chỉ sau Rumani (96,4%).
Điều gì giúp đa phần gia đình Singapore sở hữu được ít nhất một ngôi nhà mơ ước của mình?
Nguyên nhân đầu tiên và mang tính quyết định là Chính phủ Singapore, mà cụ thể là cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu. Ngay từ lúc mới lên nắm quyền, ông Lý đã thực thi viễn kiến về một xã hội mà mọi người dân đều có thể sở hữu nhà ở để họ có thể lập gia đình và sinh sống, gắn bó với mảnh đất mà họ gọi là "home" mỗi khi phải xác định nguồn gốc của mình.
Trước những năm 1960, phần lớn dân Singapore sống trong những khu ổ chuột đông đúc và mất vệ sinh. Trước thực trạng này, ông Lý đã thành lập Ban Phát triển Nhà ở (HDB) năm 1960 có nhiệm vụ thực thi kế hoạch xây dựng và cung cấp nhà ở tiêu chuẩn cho người dân Singapore. Năm 1964, ông Lý đưa ra Chương trình Sở hữu Nhà cho Nhân dân và khuyến khích người dân sở hữu các căn hộ do HDB xây dựng (tuy nói là sở hữu nhưng thực chất người dân chỉ được sở hữu căn hộ HDB trong 99 năm).
Chương trình này nhận được một cú hích quan trọng vào năm 1968 khi Chính phủ cho phép người dân dùng tiền đóng vào Quỹ bảo hiểm hưu trí (CPF) để mua căn hộ HDB. Những điều này đã biến Singapore thành một quốc gia đa số sở hữu nhà, góp phần tích cực tới sự ổn định về chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước. Vào những năm 1980, có đến hơn 80% dân số Singapore sống trong những căn hộ HDB, đạt đỉnh điểm 87% trong giai đoạn 1988-1990.
Đa dạng các loại hình nhà công cộng đáp ứng các đối tượng đa dạng
Ngoài việc xây dựng và cung cấp nơi trú ngụ với giá cả phù hợp cho dân chúng, HDB duy trì chương trình thường xuyên bảo trì, nâng cấp, xây mới và xây dựng lại từ những khu nhà cũ để đáp ứng được tiêu chuẩn sống ngày càng tăng và theo đó là nhu cầu đa dạng hóa của dân chúng khi đất nước trở nên giàu có hơn.
Bên cạnh các căn hộ HDB phổ thông phù hợp với phần lớn gia đình Singapore, HDB cung cấp một số loại căn hộ dành cho tầng lớp có thu nhập cao hơn. Từ năm 1999, HDB bắt đầu xây dựng các chung cư công cộng hạng sang (executive condominiums, EC), dành cho nhóm đối tượng không thích ở trong các khu nhà HDB bình dân nhưng lại không đủ tài chính để sở hữu căn hộ tư nhân đắt đỏ hơn nhiều. Giá mở bán các căn hộ loại này lên tới khoảng 13 tỷ đồng.
Đến năm 2005 HDB cũng triển khai chương trình xây dựng loại nhà công cộng gọi tắt là DBSS, được phát triển bởi nhà phát triển tư nhân với thiết kế đẹp hơn và chủ yếu nằm ở những khu vực bất động sản đã phát triển (matured estates). Những căn hộ 5 phòng ngủ thuộc loại này được mở bán với giá khoảng trên 15 tỷ đồng (HDB không khống chế về giá bán), quá tầm với của phần lớn gia đình trung lưu nên chương trình này không được hưởng ứng mạnh mẽ và cuối cùng chấm dứt hoàn toàn vào khoảng năm 2015.
Tiêu chuẩn để được sở hữu một căn hộ HDB
Để được mua một căn hộ HDB mới (trực tiếp từ HDB), đối tượng phải là gia đình, có ít nhất là một người (vợ/chồng) mang quốc tịch Singapore, người kia có thể là thường trú nhân; trên 21 tuổi; có tổng thu nhập hàng tháng trong phạm vi giới hạn đặt ra cho loại căn hộ định mua (ví dụ, không quá 12 nghìn SGD/tháng (203 triệu đồng) cho căn hộ 4 phòng hoặc lớn hơn); không được sở hữu bất động sản khác ở trong hay ngoài nước, và không có bất động sản nào bán trong vòng 30 tháng trước; chưa mua căn hộ HDB, DBSS hay EC mới nào và chưa nhận được trợ cấp mua nhà từ CPF v.v…
Làm thế nào để phần lớn người dân sở hữu được nhà ở nơi đắt đỏ như Singapore? - Ảnh 2.
Mô hình các khu chung cư HDB được xem là "đặc sản" của quy hoạch đô thị Singapore, là loại hình nhà ở cao tầng bình dân của Singapore.
Giá bán những căn hộ HDB phổ thông mới tùy thuộc vào vị trí và diện tích. Ví dụ, một căn hộ 4 phòng (3 phòng ngủ) ở khu đã phát triển như Toa Payoh có giá từ 380.000 SGD (6,4 tỷ đồng). Người mua có thể được trợ cấp tài chính một phần (cho lần đầu) bởi Chính phủ (với giá chỉ còn từ 196.000 SGD cho căn hộ 4 phòng), và tất nhiên là có thể vay ngân hàng hoặc từ HDB theo lãi suất thương mại, tối đa lên tới 90% giá trị căn hộ.
Những người không đáp ứng được tiêu chuẩn để sở hữu căn hộ HDB mới nói trên có thể tìm mua căn hộ HDB cũ, được bán trên thị trường resale, tất nhiên là với giá cao hơn nhiều, gấp đôi hoặc gấp 3 so với giá bán mới.
Điều kiện gồm có: phải là người Singapore hoặc thường trú nhân; phải có thêm ít nhất một người cùng sống (là người Singapore hoặc thường trú nhân); với hộ gia đình thường trú nhân thì mọi thành viên sở hữu và sinh sống cùng phải có tư cách thường trú nhân ít nhất 3 năm trước đó; trên 21 tuổi; cấu trúc hộ gia đình phải gồm: hoặc một vợ/chồng và con, hoặc bố mẹ với anh em v.v…
Đáng chú ý là còn có thêm điều kiện về hạn mức (quota) về dân tộc (EIB) cho khu vực và tòa nhà mình định mua trên thị trường resale (ví dụ nếu khu vực/tòa nhà đó hết quota cho dân gốc Mã Lai thì người Mã Lai sẽ không được mua căn hộ ở đó nữa). Điều này là để đảm bảo sự hòa nhập các sắc tộc lẫn nhau trong một xã hội đa sắc tộc như Singapore, tránh tình trạng, ví dụ, tập trung dân cư của một dân tộc nào đó vào một khu vực cụ thể. 

Sunday 16 December 2018

Dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam: Lợi ích khó nắm bắt (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/282804/dich-chuyen-san-xuat-sang-viet-nam-loi-ich-kho-nam-bat-.html

Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang vào giai đoạn tạm thời hưu chiến, nhưng những gì đã trải qua trong mấy tháng qua cho thấy chiến tranh thương mại giữa những cường quốc kinh tế sẽ hầu như không chừa lại một nước nào đó yên bình đứng ngoài cuộc như trước đây.

Những xáo trộn mà chiến tranh thương mại mang đến cho mọi quốc gia gồm hai mặt, tốt và xấu. Nhìn chung, sẽ có nhiều nước ở vào thế “ngư ông đắc lợi” vì một số ngành nghề và lĩnh vực của họ “tự nhiên” được hưởng lợi. Ngược lại, trên bình diện chung, chiến tranh thương mại làm sụt giảm thương mại và tăng trưởng toàn cầu nên ít nhiều thì kể cả những nước “ngư ông đắc lợi” này cũng sẽ chịu thiệt hại ở mặt này hay mặt khác, không là tăng trưởng chung giảm đi thì là bất ổn về dòng vốn và căng thẳng vĩ mô và địa chính trị.
Điều trên cũng đã và sẽ đúng với Việt Nam. Khi cuộc chiến mới nổ ra, ở giai đoạn vẫn còn tương đối khiêm tốn, không ít quan điểm cho rằng Việt Nam sẽ là người hưởng lợi lớn bởi sự dịch chuyển sản xuất từ những nước bị ảnh hưởng bởi việc tăng thuế của Mỹ, Trung và những nước liên quan để lẩn tránh thuế (chưa nói đến việc Việt Nam được hưởng lợi từ giá nguyên vật liệu nhập khẩu từ Trung Quốc rẻ đi, giúp giảm giá thành sản phẩm chế tạo tại Việt Nam...).
Nhưng để những lợi ích trên thành hiện thực hoàn toàn không dễ và nếu có đạt được thì nhiều khả năng chỉ là nhất thời.
Giả sử mọi chuyện đều tốt đẹp như dự tính, tức là sẽ có nhiều nhà sản xuất từ Trung Quốc (gồm cả doanh nghiệp Trung Quốc và FDI tại Trung Quốc) có ý định nghiêm túc dịch chuyển cơ sở sản xuất của mình sang Việt Nam. Về phía Việt Nam, nếu làn sóng dịch chuyển này trở thành sự thật thì nhìn chung đó sẽ là một dấu cộng lớn cho Việt Nam (ở đây xin không bàn đến những tác động tiêu cực đằng sau làn sóng này, ví dụ như ô nhiễm môi trường, công nhân nước ngoài, ổn định an ninh trật tự...).
Dấu cộng này được thể hiện trước tiên ở chuyện công ăn việc làm, chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể, với nhiều cơ hội và lựa chọn hơn cho người lao động đã có việc hoặc đang thất nghiệp. Điều này là luôn đúng kể cả khi những doanh nghiệp dịch chuyển sang Việt Nam chỉ thực hiện những bước hoàn thiện sản phẩm cuối cùng chủ yếu để có được chứng nhận xuất xứ “Made in Vietnam”. Người lao động cũng sẽ có nhiều cơ hội để được đào tạo và tự đào tạo đáp ứng những yêu cầu cao hơn trong công việc nên chất lượng nguồn lao động cũng được cải thiện đáng kể.
Những lợi ích khác có thể kể đến là tăng thu thuế các loại cho ngân sách địa phương và trung ương. Quan trọng hơn, sự chuyển dịch này còn kéo theo sự phát triển các chuỗi cung ứng và công nghiệp phụ trợ, tăng cường chuyển giao và lan tỏa kỹ thuật, công nghệ (trực tiếp và gián tiếp)... có tác dụng biến Việt Nam thành một công xưởng thế giới có tính cạnh tranh cao, tạo điều kiện để Việt Nam bước tiếp trên bậc thang giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Tuy nhiên, để đón nhận làn sóng dịch chuyển sản xuất này ở quy mô đáng kể, Việt Nam phải giải quyết được nhiều nút thắt, mà trước tiên là cơ sở hạ tầng và logistics. Mới mấy ngày trước đây, Diễn đàn Logistics Việt Nam 2018 đã xác định chi phí logistics đang là điểm nghẽn trong lưu thông hàng hóa, tăng chi phí sản phẩm khiến hàng hóa xuất khẩu kém cạnh tranh hơn so với các nước. Hạ tầng logistics từ thương mại, giao thông, đến công nghệ thông tin đều được xác định ở tình trạng yếu kém.

Thử hình dung, nếu trong một thời gian ngắn vài tháng, vài quí sắp tới, đột nhiên có hàng loạt doanh nghiệp sản xuất thương mại mới được thành lập ở Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu, với lượng hàng hóa tăng vọt (cần lưu ý là làn sóng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam là để lấp chỗ trống trong xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ nên sẽ ở quy mô lớn hoặc rất lớn). Lúc đó, dù có chạy nước rút thì chắc chắn Việt Nam cũng không thể cải thiện đáng kể năng lực logistics trong thời gian ngắn như vậy được, đặc biệt trong bối cảnh vốn đầu tư nhà nước cực kỳ eo hẹp trong khi cơ chế đầu tư công tư kết hợp (PPP) vẫn đang “lùng nhùng”. Và nhà đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ phải cân nhắc nút thắt này để quyết định có chuyển dịch sang Việt Nam hay không.
Nút thắt lớn thứ hai là hành động của Mỹ (và các nước có quyền lợi liên quan) trước sự tăng vọt bất thường của xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ (và các nước khác). Chúng ta biết điều gì đang xảy ra thì người Mỹ cũng vậy, và chắc chắn họ sẽ không khoanh tay đứng nhìn xuất khẩu ngành hàng nào đó từ Việt Nam vào thị trường Mỹ tăng vọt bất thường mà lý do đằng sau là hiển nhiên. Điều này mới chỉ là “đoán già đoán non” vào thời điểm ban đầu của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung nhưng nay đã thành sự thật khi đại diện Bộ Công Thương Việt Nam mới đây đã phải lưu ý về việc Mỹ đã khởi xướng các cuộc điều tra chống lẩn tránh thuế nhập khẩu của Mỹ với sản phẩm ván dán của Việt Nam.
Do đó, muốn được hưởng trọn lợi ích của sự dịch chuyển sản xuất này thì Việt Nam cần phải có những giải pháp để đảm bảo rằng sản phẩm đóng mác “Made in Vietnam” thực sự được làm ở Việt Nam theo cách nhìn nhận, đánh giá của Mỹ và các đối tác nhập khẩu.
Một nút thắt khác, và không phải là nút thắt cuối cùng, cho việc Việt Nam trở thành công xưởng thế giới nhân đà chiến tranh thương mại Mỹ - Trung là những tương đồng giữa Việt Nam với Trung Quốc với tư cách là một đối tác thương mại với Mỹ (và thế giới phát triển). Trung Quốc đã và đang bị buộc tội không tuân thủ những luật chơi của thị trường, nhà nước vẫn chi phối mạnh mẽ nền kinh tế nên đã không được các nước phương Tây thừa nhận là một nền kinh tế thị trường và đó cũng là một trong những lý do chính dẫn đến cuộc chiến thương mại hiện nay trước sự lớn mạnh quá mức của Trung Quốc như là một công xưởng thế giới.
Những tương đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ chưa thành một trở ngại cho Việt Nam (và là mối đe dọa, tổn thất cho phương Tây) chừng nào Việt Nam chưa trở thành một thế lực kinh tế đáng chú ý, có khả năng gây thiệt hại đến Mỹ và phương Tây. Vì vậy, muốn Việt Nam trở thành một cứ điểm sản xuất toàn cầu một cách an toàn và bền vững thì điều cần làm trước tiên là phải đạt được sự công nhận là một nền kinh tế thị trường từ Mỹ và phương Tây.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).