Tuesday 30 January 2018

Cơ cấu lại đầu tư công: ít có điểm mới (Bài đăng trên TBKTSG, 30/1/2018)

https://toithichdoc.blogspot.sg/2018/01/pha-gia-chi-tu.html

Mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 63/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án Cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025 (sau đây gọi tắt là Đề án 2017).
Với cụm từ “cơ cấu lại”, có thể hiểu bản chất của Đề án 2017 là làm thay đổi (căn bản) cấu trúc của đầu tư công ở Việt Nam trong những năm tới. Điều này có nghĩa là với Đề án 2017 thì đầu tư công sẽ có hình hài khác (căn bản) với các giải pháp pháp lý và đề án tương tự trước đây, ví dụ như Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng giai đoạn 2013-2020, tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng nhất, trong đó có tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, được Thủ tướng phê duyệt năm 2013 (sau đây gọi tắt là Đề án 2013).
Những khác biệt chính
Điểm khác biệt trước tiên giữa hai đề án trên là tỷ trọng đầu tư nhà nước bình quân tính trên GDP. Tỷ trọng này ở Đề án 2017 là 10-11% GDP. Đề án 2013 không trực tiếp đề cập đến tỷ trọng này, thay vào đó là tỷ trọng đầu tư nhà nước trên tổng đầu tư xã hội, ở mức 35-40%. Nhưng Đề án 2013 cũng đề ra mục tiêu đảm bảo tổng đầu tư xã hội khoảng 30-35% GDP nên từ đây có thể tính ra tỷ lệ đầu tư nhà nước trên GDP mà Đề án 2013 muốn đạt được là khoảng 10,5-14% GDP. Nói cách khác, Đề án 2017 định hướng tiếp tục hạ thấp tỷ trọng đầu tư nhà nước trên GDP so với trước đây như là một phần trong nỗ lực “cơ cấu lại” đầu tư công như được đặt ra.
Khác biệt thứ hai có thể kể ra là Đề án 2017 đã đặt mục tiêu “phấn đấu đạt tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công hàng năm trên 90%”, trong khi mục tiêu tương tự không được đề cập trong Đề án 2013. Chắc chắn là tình trạng “ế” vốn đầu tư công trầm trọng (không giải ngân được) trong năm 2017 là lý do đằng sau mục tiêu này, được đặt ra như một biện pháp tình thế khắc phục phần nào tác động bất lợi của cắt giảm đầu tư công (theo mức tương đối) lên tăng trưởng kinh tế. Nhưng vì không trực tiếp liên quan đến chuyện “cơ cấu lại” đầu tư công, là mục đích chính của Đề án 2017, nên mục tiêu này lẽ ra và nên là mục tiêu của một văn bản quy phạm nào đó, chẳng hạn một chỉ thị của Thủ tướng về tăng cường quản lý đầu tư công trong các năm tới nhằm thực hiện Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020.
Ngoài ra, Đề án 2017 cũng đặt ra mục tiêu xác định rõ vai trò và định hướng đầu tư công theo nguồn vốn và các ngành, lĩnh vực giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025. Bối cảnh của việc làm rõ phạm vi đầu tư công như thế này có lẽ xuất phát từ thực tế là mỗi nguồn vốn cho đầu tư công và mỗi đối tượng thụ hưởng (ngành, lĩnh vực, vùng, lãnh thổ) lại có đặc thù riêng nên không thể, không nên áp dụng chung một cơ chế, chính sách về đầu tư công cho tất cả các bên. Chính từ nhận thức này nên Đề án 2017 đã có hẳn một chương dài về định hướng cơ cấu lại đầu tư công theo nguồn vốn, vùng, và lãnh thổ, với các ưu tiên đầu tư khác nhau.
Những bất hợp lý
Ngoài những mục tiêu nói trên, Đề án 2017 có thêm những mục tiêu sau: (1) Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ công; (2) Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công trong tất cả các khâu của quy trình quản lý đầu tư công, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của đầu tư công, và (3) Tiếp tục đẩy mạnh thu hút tối đa, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, mở rộng các hình thức đầu tư.
Với mục tiêu (1) nói trên, đây chỉ là sự cụ thể hóa nguyên tắc gắn kế hoạch đầu tư công trung hạn với kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ công được nêu trong Chỉ thị Số 1792/CT-TTg ngày 15-10-2011 của Thủ tướng. Biến nguyên tắc này thành mục tiêu trong Đề án 2017 là gián tiếp thừa nhận rằng khuôn khổ pháp luật đã có nhưng đã không thực hiện được (tốt). Bởi vậy, thay vì đưa vào Đề án 2017 như một mục tiêu riêng biệt cho việc cơ cấu lại đầu tư công nhưng lại không phản ánh các bất cập hiện thời trong cơ cấu đầu tư công, các cơ quan chức năng cần thực thi nghiêm túc Chỉ thị 1792 hoặc Chính phủ phải có chế tài mạnh với những cá nhân và tập thể không thực thi nghiêm túc chỉ thị này. Chuyện đưa “nhầm chỗ” như thế này cũng tương tự như chuyện phấn đấu đạt tỷ lệ giải ngân đầu tư công nêu ở trên.
Tương tự, với mục tiêu (2), đành rằng cơ chế quản lý đầu tư công hiện tại còn nhiều tồn tại, chưa tối ưu, cần phải tiếp tục hoàn thiện, đổi mới. Nhưng, về bản chất, đây chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan liên đới đến quản lý đầu tư công cần thực hiện trong thời gian tới, chứ không phải là việc cơ cấu lại đầu tư công, như tiêu đề của Đề án 2017 và mục đích của nó.
Còn với mục tiêu (3), cần lưu ý rằng ít nhất là trong Đề án 2013 cũng có nội dung “hao hao” như vậy, thậm chí còn mở rộng hơn và cụ thể hơn: “Mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân, nhất là tư nhân trong nước. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân vào phát triển hạ tầng, phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng phát triển và các vùng kinh tế động lực”. Rõ ràng là việc lặp lại này cũng không nên được đưa vào thành một mục tiêu riêng biệt (và mới) của Đề án 2017, mà chỉ nên được coi là một nhiệm vụ theo, ví dụ, chỉ thị của Thủ tướng về tăng cường quản lý đầu tư công nhằm thực hiện Đề án 2017 như nêu ở phần “Những khác biệt” bên trên.
Tóm lại, trong số nhiều mục tiêu của Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020, chỉ có hai điểm mới thiết thực và tích cực liên quan đến việc cơ cấu lại đầu tư công là tiếp tục thu hẹp quy mô đầu tư công, và “may đo riêng” đầu tư công cho từng vùng, lãnh thổ, và theo nguồn vốn.

Friday 26 January 2018

Chính sách đô la Mỹ yếu sẽ tác động thế nào đến Việt Nam? (Bài đăng trên CafeF, 26/1/2018)

http://cafef.vn/chinh-sach-do-la-my-yeu-se-tac-dong-the-nao-den-viet-nam-20180126100554726.chn

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin mới đây trong một động thái khá bất ngờ đã tuyên bố thẳng thừng rằng một đồng đô la yếu (trong ngắn hạn) là có lợi cho thương mại và nền kinh tế của Mỹ. Ngay lập tức, đô la Mỹ đã suy yếu thêm trên các thị trường ngoại hối quốc tế khi thị trường tin rằng Mỹ đang tìm cách làm yếu đồng đô la Mỹ để kích thích tăng trưởng kinh tế.

Một mắt xích trong chiến lược tổng thể
Tuyên bố của ông Mnuchin là hoàn toàn trái ngược với truyền thống ủng hộ một đồng đô la mạnh của nhiều đời bộ trưởng tài chính nước này kể từ thời ông Robert Rubin. Nhưng nhìn trong tổng thể, tuyên bố của ông Mnuchin là một hành động nhất quán, có tính bổ trợ cho chính sách "nước Mỹ trên hết" của Tổng thống Trump được thực hiện qua các hành động bảo hộ thương mại, mà mới đây nhất là thuế chống phá giá lên máy giặt và tấm pin mặt trời nhập khẩu vào Mỹ. Ông Mnuchin còn cho biết là tới đây Mỹ sẽ áp đặt thêm các biện pháp bảo hộ mới trong một số lĩnh vực như sở hữu trí tuệ, thép và nhôm.
Đồng đô la suy yếu sẽ một mặt hỗ trợ thêm cho xuất khẩu của Mỹ ra thế giới, mặt khác tăng thêm tác động bất lợi cho hàng hóa của các nước khác xuất khẩu vào Mỹ, bên cạnh các hàng rào bảo hộ thương mại mới và sẽ tiếp tục được áp đặt.
Tuy nhiên, ông Mnuchin cũng rất khôn khéo khi xoa dịu dư luận quốc tế bằng việc "thòng" thêm một cầu rằng "Điều gì tốt cho Mỹ thì cũng sẽ tốt cho phần còn lại của thế giới vì chúng tôi là một trong những đối tác (thương mại) lớn nhất thế giới, một trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất….Chúng tôi mở cửa cho kinh doanh."
Tác động đến Việt Nam
Chủ trương, nếu có, để đồng đô la Mỹ suy yếu ít nhất là trong ngắn hạn của giới chức Mỹ trước tiên là rất thuận lợi cho chính sách duy trì ổn định tỷ giá tiền Đồng (VND/USD) mặc định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Vì tiền đồng được "neo" danh nghĩa vào đô la Mỹ nên khi đô la Mỹ suy yếu với nhiều bản tệ khác trên thế giới thì tiền Đồng, về nguyên tắc, cũng suy yếu so với nhiều bản tệ khác. Điều này làm lợi cho xuất khẩu của Việt Nam, và, ngược lại, gây bất lợi cho nhập khẩu vào Việt Nam. Với tác động tích cực lên thương mại của Việt Nam như vậy, sự "neo" tỷ giá danh nghĩa VND/USD sẽ không chịu nhiều áp lực phải điều chỉnh ít nhất là trong ngắn hạn, chừng nào đồng đô la Mỹ còn tiếp tục chịu áp lực suy yếu. Diễn biến này là ngược lại với trước đây khi đô la Mỹ có xu hướng tăng giá mạnh so với hầu hết các bản tệ trên thế giới, kéo theo sự lên giá danh nghĩa của tiền Đồng so với các bản tệ này, gây tác động bất lợi cho thương mại Việt Nam và, do đó, làm tăng áp lực phá giá tiền Đồng để duy trì sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Cần lưu ý rằng sự "neo" tiền Đồng vào đô la Mỹ trong khi đô la Mỹ suy yếu với các bản tệ khác, về lý thuyết, sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa do Việt Nam sản xuất so với hàng hóa của các nước đối tác khác ngoài Mỹ trên các thị trường xuất khẩu thế giới, trong đó có Mỹ. Vì tỷ giá VND/USD là ổn định nên sức cạnh tranh của hàng hóa do Việt Nam sản xuất sẽ không thay đổi trong tương quan với hàng hóa do Mỹ sản xuất. Điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ dành thêm thị phần xuất khẩu vào Mỹ từ các đối thủ không phải ở Mỹ mà là đối thủ khác ngoài Mỹ (nếu họ không kịp thời điều chỉnh tỷ giá bản tệ của mình, với giả thiết các điều kiện khác không thay đổi).
Ngược lại, hàng nhập khẩu vào Việt Nam từ Mỹ sẽ không có thêm hậu thuẫn gì từ đồng đô la suy yếu, trong khi nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước đối tác khác sẽ suy giảm do tiền Đồng suy yếu so với các bản tệ của các nước này (khi các điều kiện khác không thay đổi).
Đối với lạm phát của Việt Nam, đô la Mỹ suy yếu gây ra các tác động trái chiều, cả trực tiếp và gián tiếp. Một mặt, đô la Mỹ suy yếu sẽ thường làm tăng giá cả hàng hóa trên thế giới (chủ yếu được niêm yết bằng đô la Mỹ). Kết hợp với sự ổn định danh nghĩa của tỷ giá VND/USD, sự tăng giá hàng hóa thế giới sẽ có xu hướng làm tăng áp lực lạm phát tại Việt Nam thông qua kênh nhập khẩu. Mặt khác, tác động bất lợi này phần nào được hóa giải nhờ lượng nhập khẩu vào Việt Nam sẽ suy yếu do giá cả tăng lên, và được thay thế (một phần) bởi hàng nhập khẩu có giá rẻ hơn từ những nước xuất khẩu không niêm yết hàng xuất khẩu của họ bằng đô la Mỹ hoặc hàng sản xuất tại Việt Nam. 
Một số đối tượng khác tại Việt Nam sẽ bị tác động không có lợi nếu nhìn từ tuyên bố của ông Mnuchin (nhưng không liên quan trực tiếp đến chủ trương để đô la Mỹ suy yếu của ông này). Đó là các ngành liên quan đến sở hữu trí tuệ, thép và nhôm là những mặt hàng được chỉ đích danh. Do Mỹ có thể áp dụng thêm các biện pháp bảo hộ thương mại nên xuất khẩu những mặt hàng này của Việt Nam vào Mỹ có thể bị ảnh hưởng đáng kể. Hiện tại thì thép đã và đang là nạn nhân của chính sách tăng cường bảo hộ của Mỹ chống lại những hành động mà nước này cho là gian lận thương mại, ví dụ như để hàng Trung Quốc đội lốt là hàng Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. 

Sunday 21 January 2018

Hạ lãi suất không đơn giản (Bài đăng trên TBKTSG, 21/1/2018)


http://www.thesaigontimes.vn/267960/Ha-lai-suat-khong-don-gian.html


Bước sang năm mới, Thủ tướng đã đặt nhiệm vụ cho ngành ngân hàng phấn đấu giảm tiếp lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Bối cảnh của yêu cầu này có lẽ là tăng trưởng tín dụng hợp lý, lạm phát được kiểm soát khá tốt, tỷ giá ổn định, nợ xấu được tăng cường xử lý nhờ Nghị quyết tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD) và xử lý nợ xấu của Quốc hội năm 2017… Đây là những yếu tố được kỳ vọng có thể giúp hệ thống ngân hàng giảm lãi suất cho vay.
Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà mới gần đây, và cũng như mọi khi, mấy ngân hàng “quốc doanh” gồm Vietcombank, Vietinbank và Agribank hầu như cùng lúc công bố kế hoạch giảm lãi suất cho vay, trong khi một số ngân hàng thương mại cổ phần lại có động thái tăng lãi suất huy động (và tức là khó mà hạ lãi suất cho vay, nếu không muốn nói ngược lại).
Các hành động đan xen trái chiều liên quan đến lãi suất như trên cho thấy việc hạ lãi suất cho vay sẽ là việc không dễ dàng, dù rằng có những yếu tố hỗ trợ như nói ở trên. Thực tế là đã có nhiều thời điểm trong các năm trước đây khi Chính phủ yêu cầu ngành ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì lập tức các ngân hàng “quốc doanh” đều hầu như đồng loạt công bố kế hoạch giảm lãi suất trong một động thái rất đáng thắc mắc mà có người cho là kết quả của một sự “đạo diễn”.
Đáng nói hơn là kế hoạch hạ lãi suất cho vay của những ngân hàng này thường xuyên chỉ là dành cho những đối tượng ưu tiên, vốn chỉ chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng, chứ không phải cho tất cả các khách hàng vay, trên diện rộng. Điều này nếu được xét trên góc độ bài toán chi phí và lợi nhuận của ngân hàng thì cũng hoàn toàn hợp lý vì khi cho vay các lĩnh vực và đối tượng ưu tiên các ngân hàng vẫn phải sử dụng nguồn vốn huy động chung, chứ hầu như không được ưu tiên một nguồn vốn “giá rẻ” nào đó, ví dụ như từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có lãi suất ưu đãi. Nói cách khác, khi phải dành (thêm) một nguồn vốn nhất định cho vay các lĩnh vực ưu tiên với lãi suất thấp, các ngân hàng, về nguyên tắc, sẽ phải giảm (thêm) nguồn vốn cho vay dành cho các lĩnh vực và đối tượng còn lại, vốn có lãi suất cho vay (và lợi nhuận) cao hơn. Điều này cũng có nghĩa là việc công bố kế hoạch giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng “quốc doanh” cũng vẫn chỉ là hành động mang tính bề nổi, hướng ứng (do “đạo diễn”?) là nhiều, chứ không đi vào thực chất và không xuất phát từ thực tế.
Xét trên khía cạnh vĩ mô, điều kiện để hạ lãi suất cho vay trên diện rộng phải là sự kết hợp của hành động nới lỏng cung tiền của NHNN và nhu cầu tín dụng yếu. Thế nhưng trên thực tế, NHNN đã và đang trở nên rất tỉnh táo, thận trọng (một cách đúng đắn) vói tăng trưởng cung tiền và tín dụng. Điều này thể hiện ở tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 luôn thấp hơn đáng kể tăng trưởng tín dụng, và tăng trưởng tín dụng thì được kiểm soát ở mức trên 18% một chút trong năm 2017, thậm chí còn thấp hơn năm 2016, mặc dù Chính phủ trong năm đã nhiều lần yêu cầu NHNN đẩy tăng trưởng tín dụng cao hơn, thậm chí đến 21%-22% khi tốc độ tăng trưởng GDP có khả năng không đạt kế hoạch 6,7%.
Về nhu cầu tín dụng, cần lưu ý rằng tăng trưởng tín dụng được kiểm soát ở mức 18% năm qua là nhờ NHNN (theo báo cáo) đã giám sát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng từng TCTD, hạn chế cho vay những lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán và BOT… Nếu không, như những năm trước, chúng ta rất có thể đã “được” chứng kiến một năm, một thời kỳ bùng nổ tăng trưởng tín dụng mới, nếu NHNN tuân theo chỉ đạo của Chính phủ. Nêu thực tế này để nói lên rằng nhu cầu tín dụng ở Việt Nam thật ra là/phải rất lớn, lớn hơn nhiều so với con số báo cáo chính thức. Như thế, kết hợp với chuyện NHNN thận trọng với cung tiền, có thể nói giữ nguyên được mặt bằng lãi suất trong năm qua (và năm nay) cũng đã là một thành công, chứ chưa nói đến nhiệm vụ “bất khả thi” là hạ lãi suất cho vay.
Cũng cần nói thêm về những yếu tố hỗ trợ giảm lãi suất như nêu ở phần đầu bài. Lạm phát đúng là đã được kiềm chế khá thành công trong năm qua nhưng ngay cả Chính phủ cũng phải đặt kỳ vọng một mức lạm phát cao hơn trong năm 2018 này. Kỳ vọng lạm phát cao hơn có nghĩa là dư địa tăng cung tiền để hạ lãi suất sẽ phải giảm đi. Hơn nữa, có lẽ mục tiêu lạm phát năm nay được xây dựng trên kỳ vọng NHNN tiếp tục thận trọng với tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng. Bởi vậy, nếu chạy theo mục hạ lãi suất (trên diện rộng) thì NHNN sẽ buộc phải nới lỏng tiền tệ thêm, dẫn đến tăng áp lực lạm phát, ảnh hưởng ngược lại mục tiêu theo đuổi là giảm lãi suất cho vay.
Về sự ổn định của tỉ giá, điều này có được là nhờ nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, từ chuyện NHNN thận trọng với cung tiền, đến chuyện đô la Mỹ đã suy yếu so với nhiều ngoại tệ và chuyện Việt Nam đã có một năm may mắn đón nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài dồi dào… Bởi vậy, sự ổn định này không phải là điều nghiễm nhiên, tất yếu sẽ có được, mà sẽ trở thành bất định một khi một hoặc nhiều yếu tố này thay đổi. Bởi vậy, sẽ là rất rủi ro nếu lập kế hoạch (giảm lãi suất cho vay) mà lại dựa vào những giả định không chắc chắn, những yếu tố bất trắc.
Trên hết, việc quá chú trọng vào giảm lãi suất cho vay như là một tiền để, một điều kiện cần để “thúc” tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh hiện nay xem ra không còn hoàn toàn thích hợp nữa. Bởi, mặc dù lãi suất không giảm (đáng kể, trên diện rộng) trong năm qua, và mặc dù tăng trưởng tín dụng không phải là đột biến, nhưng tăng trưởng GDP vẫn đã có một năm thành công ngoạn mục, ngoài kỳ vọng.
Do đó, thay vì “nỗ lực”, “phấn đấu” thực hiện nhiệm vụ khó khăn là giảm lãi suất mà nhiều khi phải trả bằng giá đắt nếu bất cẩn, điều nên làm (trong mọi hoàn cảnh) và hoàn toàn khả thi là thực hiện các giải pháp “mềm” –  tiếp tục cải cách, gỡ các nút thắt, các hạn chế đến tăng trưởng – thay vì các giải pháp “cứng” như nới lỏng tiền tệ hoặc dùng mệnh lệnh hành chính để “đạo diễn” một phong trào hạ lãi suất cho vay, vốn mang tính “diễn” là nhiều hơn.

Friday 12 January 2018

Chưa rõ mô hình, sao thành lập? (Bài đăng trên TBKTSG, 12/1/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/267621/Chua-ro-mo-hinh-sao-thanh-lap.html

Bằng việc cử người giữ chức tại Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước (sau đây gọi tắt là Ủy ban), các cơ quan có thẩm quyền đang tiến gần hơn mục tiêu thành lập một “siêu ủy ban” quản lý vốn Nhà nước tại Việt Nam trong năm 2018, theo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 12/2017 về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Tuy nhiên, điều rất đáng bàn ở đây là Ủy ban này được quyết định thành lập khi chưa định hình cụ thể mô hình hoạt động của nó, hoặc là theo mô hình của Quỹ Đầu tư Temasek (Singapore), hoặc mô hình của Ủy ban Giám sát và Quản lý tài sản Nhà nước (SASAC, Trung Quốc), hoặc một mô hình nào khác (1).

Trừ khi nhà chức trách đã có sẵn một kế hoạc hoạt động cụ thể trên bàn nghị sự nhưng không công bố, sự thành lập Ủy ban khi chưa rõ mô hình hoạt động như thế này cho thấy tâm lý sốt ruột, chạy theo tiến độ, hoàn thành các mục tiêu trên giấy mà không mấy bận tâm đến hiệu quả thực tế của Ủy ban, chưa nói đến việc thành lập nóng vội như vậy sẽ tạo thêm tổn phí cho xã hội một cách không cần thiết.


Điểm đáng bàn khác là dường như các cơ quan thiết kế, tham mưu thành lập Ủy ban đã không tiếp thu, xem xét thấu đáo các ý kiến đóng góp xây dựng và phản biện từ phía công luận để vận dụng vào chương trình xây dựng Ủy ban. Điều này được thể hiện ở khía cạnh là những gì công luận được biết cho đến thời điểm này liên quan đến “hình hài”, chức năng và sứ mệnh của Ủy ban vẫn chỉ là dự thảo thành lập Ủy ban do Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ trước đây và đã nhận không ít phản biện trái chiều từ công luận. Bởi vậy, việc thành lập Ủy ban trong bối cảnh còn đang “lùng nhùng” như vậy đã tạo ra cảm nhận hay xuất phát từ luồng ý kiến là Ủy ban có thể thành công hay thất bại nhưng tinh thần là cứ phải thành lập trước đã, “cứ đi sẽ thấy đường”, vừa làm vừa sửa (sai).
Quay trở lại với hai mô hình tiêu biểu làm hình mẫu tham khảo cho Ủy ban là Temasek và SASAC. Với mô hình Temasek, như người viết đã phân tích trước đây (xem bài “Ủy ban không phải là lời giải phù hợp” trên TBKTSG Online http://www.thesaigontimes.vn/149048/Uy-ban-khong-phai-la-loi-giai-phu-hop.html), Việt Nam không có đủ điều kiện để thực hiện và mô hình này cũng không tương thích với Việt Nam. Cụ thể hơn, áp dụng mô hình này cần một môi trường văn hóa quản trị minh bạch; hoàn toàn độc lập với các can thiệp chính trị; có phương hướng hoạt động rõ ràng (hoạt động thuần túy trên góc độ thương mại, theo đuổi lợi nhuận và tạo giá trị gia tăng tối đa cho các cổ đông) mà không “kiêm nhiệm” các sứ mệnh khác như tái cơ cấu, thoái vốn, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN; nhân sự là những nhà quản lý doanh nghiệp chuyên nghiệp chứ không phải các công chức bàn giấy từ các bộ chuyển sang…
Còn với mô hình SASAC, không rõ  những người thai nghén ra Ủy ban đã/sẽ tham khảo mô hình SASAC ở khía cạnh nào và tại thời điểm nào vì bản thân SASAC cũng đã và đang trải qua nhiều lần thay đổi, lột xác, được cải cách liên tục suốt từ lúc ra đời vào năm 2003 để theo kịp thực tiễn thay đổi nhanh chóng ở Trung Quốc, mặc dù ban đầu SASAC được thành lập cũng là dựa trên mô hình Temasek (2). Trên hết, bản thân SASAC là một cơ quan hoạch định chính sách về DNNN, có chức năng và quyền hạn cải cách DNNN (như bổ nhiệm nhân sự chủ chốt DNNN, phê chuẩn kế hoạch sáp nhập hoặc bán tài sản DNNN, soạn thảo luật liên quan đến DNNN…) và trực thuộc Ủy ban Nhà nước của chính quyền Trung Quốc (tức là có vị thế tương đương với các bộ), chứ không chỉ đơn thuần là một cơ quan thừa hành chỉ đạo của các bộ và cơ quan ngang bộ như ở Việt Nam, nếu theo đúng dự thảo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc thành lập Ủy ban quản lý vốn Nhà nước.
Ngoài ra, có một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mô hình SASAC cũng chẳng phải là một mô hình ưu việt vì các DNNN được Ủy ban này quản lý vẫn có kết quả hoạt động kém cỏi so với các công ty được Temasek quản lý (2). Lý do là vì SASAC quản lý các DNNN mà không thực hiện quyền của chủ sở hữu trong việc giám sát hoạt động của DNNN dưới sự quản lý của nó như Temasek trực tiếp thực hiện với các doanh nghiệp mà tổ chức này quản lý. Ví dụ, SASAC sở hữu và quản lý 100% vốn của tập đoàn China Hi-Tech Group Corporation. Đến lượt nó, tập đoàn này lại sở hữu và quản lý những doanh nghiệp như China Garments Co. Ltd, CHTC Helon Co. Ltd… Theo cơ cấu này, mặc dù SASAC là chủ sở hữu cuối cùng (đại diện Nhà nước) của các doanh nghiệp này nhưng nó chỉ giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp gián tiếp thông qua tập đoàn China Hi-Tech.
Thực tế này dẫn đến hàm ý chính sách là việc tập trung các DNNN vào một mối, dưới sự quản lý của SASAC ở Trung Quốc (hay Ủy ban ở Việt Nam) không nhất thiết đến sự cải thiện đáng kể về chất lượng hoạt động của DNNN. Điều cần thiết là SASAC cần được cải cách để biến thành một nhà đầu tư tích cực và chủ động trực tiếp thực hiện chức năng giám sát của chủ sở hữu của nó. Hàm ý chính sách này lại dẫn đến hàm ý chính sách khác cho Việt Nam là nếu Ủy ban thực hiện chức năng quản lý, giám sát vốn Nhà nước thông qua các tổ chức trung gian như SCCI (theo dự thảo thì thuộc sự quản lý của Ủy ban) thì chất lượng quản lý giám sát hoạt động của DNNN sẽ bị suy giảm.
Tóm lại, trong lúc chưa có một mô hình tham khảo nào khác ngoài Temasek và SASAC, và trong bối cảnh hai mô hình này hoặc không thể áp dụng được ở Việt Nam hoặc bản thân chúng (SASAC) vẫn còn phải được cải cách, thay đổi cho phù hợp với thực tiễn, thì việc thành lập Ủy ban ở Việt Nam sẽ chỉ có tác dụng rất hạn chế trong, thậm chí còn làm rối thêm việc quản lý vốn Nhà nước.

(2)    https://bschool.nus.edu.sg/Portals/0/docs/CGIO/soe-china-research-report-2016.pdf

Friday 5 January 2018

Chương trình hành động 2018 của Chính phủ: Hy vọng và tin tưởng (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 5/1/2018, tiêu đề do báo đặt lại)

https://doanhnhansaigon.vn/van-de/chuong-trinh-hanh-dong-2018-cua-chinh-phu-hy-vong-va-tin-tuong-1083392.html

Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 ngay ngày đầu năm mới 2018.
Nghị quyết đưa ra những thông điệp quan trọng về vai trò và hoạt động của Chính phủ đối với nền kinh tế.

Các chỉ tiêu lớn mang tính thận trọng, thực tế

Khác với nhiều năm trước khi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội được đưa ra thường được dựa trên tinh thần "liên tục phát triển", năm sau phải tốt hơn năm trước, một số chỉ tiêu chủ chốt năm nay được đưa ra có phần thận trọng hơn để có tính khả thi nhiều hơn, và cũng là để tránh làm quá căng thẳng các nguồn lực kinh tế.

Điển hình là tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát được đặt mục tiêu lần lượt là 6,7% (so với mức thực hiện 6,81% năm 2017) và 4% (3,53% năm 2017).

Điều đáng chú ý là mặc dù mục tiêu tăng trưởng GDP 6,7% là thấp hơn năm 2017 nhưng vẫn là một con số rất cao so với nhiều năm trở lại đây. Và cứ theo lối tư duy thông thường của nhiều người, với cách tính đơn giản để GDP tăng lên 1% thì tín dụng phải tăng lên x%, lẽ ra Chính phủ đã phải đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm nay chí ít phải trên 20%. Nhưng diễn biến năm 2017 cho thấy điều "nghịch lý" là dù rất nỗ lực nhưng tăng trưởng tín dụng, ngành ngân hàng cũng chỉ đạt khoảng 18% so với cuối năm 2016 (tăng trưởng tín dụng năm 2016 là 18,7%), trong khi tốc độ tăng trưởng GDP năm 2017 vẫn tăng mạnh so với năm 2016 (6,21%). Thực tế này có lẽ là bối cảnh để Chính phủ có những điều chỉnh kịp thời, cần thiết, không còn đặt ra những mục tiêu "cứng" nữa.

hay vào đó, về tín dụng, Nghị quyết chỉ đề cập một cách thận trọng và hợp lý rằng "Mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng...". Điều này có nghĩa là Chính phủ đã không còn coi tăng trưởng tín dụng là "bà đỡ" cho tăng trưởng kinh tế nếu tăng trưởng tín dụng lại kèm theo những hậu quả như nợ xấu tăng.

Giải pháp thay thế

Thay vào nhấn mạnh đến tăng trưởng tín dụng như là chìa khóa cho tăng trưởng GDP như mọi năm, Chính phủ tập trung vào những chỉ tiêu "mềm", từ việc quyết tâm đưa Việt Nam vào nhóm ASEAN-4 về năng lực cạnh tranh (song hành cùng hàng loạt mục tiêu cụ thế cả về định tính lẫn định lượng, như cắt giảm 50% điều kiện đầu tư kinh doanh) đến chấn chỉnh các vấn đề liên quan đến đầu tư theo hình thức đối tác công - tư gồm BOT để thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng vốn là điểm nghẽn cho tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh căng thẳng ngân sách, cũng như quyết tâm tăng tỷ trọng chi ngân sách cho đầu tư phát triển (gián tiếp thông qua những mục tiêu định lượng cắt giảm biên chế) v.v...ài viết

Rõ ràng là hơn bao giở hết Chính phủ dường như đã nhận thức rõ vai trò của tăng năng suất thông qua các cải cách kinh tế và xã hội cần thiết đến tăng trưởng và phát triển kinh tế bên cạnh những giới hạn cố hữu của tăng trưởng các nguồn lực là vốn và lao động. Và khác với ngôn ngữ chung chung, trùng lặp thường gặp trong các chỉ thị và nghị quyết những năm trước, Nghị quyết năm 2018 đề cập những giải pháp cải cách, xử lý các điểm nghẽn của nền kinh tế với những mục tiêu từ lớn đến nhỏ một cách khá cụ thể, kèm theo không ít những chỉ tiêu định lượng như giảm 1,7% biên chế công chức, giảm 2,5% số đơn vị sự nghiệp công lập v.v...

Việc đặt ra các mục tiêu cụ thể và định lượng như vậy sẽ buộc các cấp thi hành phải thực thi nghiêm túc các biện pháp cải cách để hoàn thành nhiệm vụ, không còn có thể lẩn tránh trách nhiệm với những lý do “muôn thuở” như trước đây, làm cho cải cách vẫn đa phần chỉ là khẩu hiệu.

Không bỏ quên chất lượng

Với tư cách là nhà kiến tạo tăng trưởng và phát triển kinh tế, năm nay Chính phủ cũng đã tạo một dấu ấn riêng khi nhấn mạnh đến các giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường, vốn vẫn thường bị xem nhẹ bên cạnh ưu tiên hàng đầu là tăng trưởng kinh tế trong những năm trước đây.

Ngoài những mục tiêu định tính cụ thể như xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu tài nguyên, môi trường; xã hội hóa hệ thống quan trắc, cảnh báo, kết nối trung ương và địa phương; kiếm soát đặc biệt các cơ sở sản xuất có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao v.v..., những mục tiêu định lượng như 88% khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung càng làm đậm thêm quyết tâm của Chính phủ, đó là đạt tăng trưởng kinh tế cao nhưng không đánh đổi lấy sự xuống cấp của môi trường.

Tóm lại, với những gì Chính phủ đã nói, đã làm trong năm qua và chương trình hành động cho năm 2018 với những mục tiêu cụ thể, có tính thực tế và nhắm trúng vấn đề, công luận có quyền hy vọng và tin tưởng hơn vào một năm mới khả quan hơn nữa.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).