Monday 26 February 2018

Vụ khách hàng bị mất tiền ở Eximbank, lỗi trước tiên vẫn thuộc về ngân hàng (Bài đăng trên CafeF, 27/2/2018, bản gốc)

http://cafef.vn/chuyen-gia-vu-khach-hang-bi-mat-tien-o-eximbank-loi-truoc-tien-van-thuoc-ve-ngan-hang-20180227120053352.chn

Một khách hàng VIP của Eximbank đã bị một cán bộ lãnh đạo chi nhánh của ngân hàng này chiếm đoạt 245 tỷ đồng từ năm 2014.
Đáng nói là dường như ngân hàng này mới phát hiện ra vụ việc vào năm 2017. Điều này là suy từ thông tin trên báo chí: “Đến năm 2017, khi phát hiện sự việc, Eximbank đã chủ động gặp bà Bình để tìm hướng tháo gỡ và cũng chính nhà băng này tố cáo ông Hưng ra cơ quan điều tra C44” (1).

Do người đại diện của Eximbank đã thừa nhận rằng “Vụ lừa đảo là có thật” (1), cũng như trách nhiệm không thể thoái thác với khoản tiền bị đánh cắp này: “Eximbank không có chủ trương trì hoãn hay né tránh trách nhiệm trả lại tiền cho khách hàng” (2), nên trước tiên cần phải chỉ ra sự yếu kém (nếu không phải là vô trách nhiệm) trong hệ thống quản trị hoạt động và phòng ngừa rủi ro của ngân hàng này khi đã để cho một vụ việc nghiêm trọng như vậy xảy ra nhưng không được phát hiện và giải quyết kịp thời và ổn thỏa trong suốt cả mấy năm sau đó. Thậm chí, nghi can chính của vụ việc vẫn còn làm việc bình thường cho đến tận tháng 2/2017 là thời điểm người này xin nghỉ việc tại Eximbank rồi bỏ trốn khỏi Việt Nam (3). Chỉ riêng hai chuyện này, nếu đúng như vậy, đã là quá đủ để Eximbank phải chủ động nhận lỗi và bồi thường thỏa đáng cho người bị hại mà không cần phải để vụ việc vỡ lở, có thể gây hậu quả trầm trọng hơn cả về tài chính lẫn uy tín của ngân hàng này.

Nhưng đáng tiếc là ngân hàng này đã bỏ lỡ thời điểm thuận lợi nhất để thương lượng với người bị hại một khoản đền bù thích hợp nhằm không những giảm thiểu thiệt hại về tài chính cho ngân hàng  mà còn làm giảm những thiệt hại khó có thể đo đếm bằng tiền khác như sứt mẻ uy tín và phơi bầy rõ những yếu kém trong hoạt động của mình khi vụ việc bị vỡ lở, công khai cho báo chí và người dân biết.

Dù có thể còn nhiều chi tiết không được biết rõ ràng nhưng sự yếu kém (hoặc vô trách nhiệm) của ngân hàng này là nguồn gốc của vụ việc nên họ không thể thoát được trách nhiệm, dù có đưa ra một số lý do biện minh không có giá trị như khách hàng chỉ muốn tiếp xúc với một mình nghi can.  Ngay cả lý do Eximbank là ngân hàng niêm yết nên tuân thủ các quy định của một công ty niêm yết cũng là không xác đáng khi bản thân những người điều hành ngân hàng nếu nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thì cần chủ động giải quyết ổn thỏa trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của mình mà không cần phải chờ báo cáo hay giải trình với cổ đông.


Cũng cần lưu ý thêm là khi cơ quan chức năng hoặc tòa án đã ra những phán quyết bất lợi cho ngân hàng thì dù cổ đông của ngân hàng không đồng ý thì ngân hàng vẫn phải chấp hành những phán quyết này. Do đó, việc Eximbank viện dẫn chuyện phải giải trình với cổ đông như là lý do để không giải quyết vụ việc sớm hơn cũng là không hợp lý. Mà cho dù thực sự cần thiết phải như vậy thì tại sao ban lãnh đạo ngân hàng này đã không báo cáo vấn đề trong các đại hội cổ đông vừa qua hoặc không tổ chức những đại hội cổ đông bất thường để có hướng xử lý vụ việc này?
Bởi vậy, có thể nói là Eximbank không thương lượng (thành công) với khách hàng để đạt được một mức bồi thường ổn thỏa, ít gây tổn hại nhất cho Eximbank trên nhiều mặt đã, đang và sẽ tiếp tục gây tổn hại cho ngân hàng. Để vụ việc vỡ lở và phải mang nhau ra đến tòa thì trước mắt hậu quả đã thấy ngay là vốn hóa của ngân hàng này đã “bốc hơi” tới gần 500 tỷ đồng ngày 23/2. Và rốt cuộc thì việc bồi thường sẽ cũng vẫn cứ phải xảy ra, bởi vì nguồn gốc của vụ việc bắt nguồn từ sự yếu kém của ngân hàng mà nhờ đó nhân viên của họ mới có thể lừa đảo được một cách dễ dàng như vậy.
Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng những sai lầm và lỗ hổng trong quản trị của ngân hàng như nói ở trên nếu là ở nước ngoài sẽ là những vi phạm nghiêm trọng các quy định kiểm soát hoạt động nội bộ, có thể dẫn đến những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật khi để xảy ra hoặc có thể dẫn đến hậu quả lớn cho khách hàng, cho bản thân ngân hàng và cho toàn bộ hệ thống. Nên ở đây cũng cần đặt vấn đề về trách nhiệm liên đới của cơ quan quản lý chức năng khi đã để xảy ra liên tục những vụ việc tương tự (nhân viên ngân hàng lừa đảo khách hàng) ở Việt Nam trong vài năm qua mà đã không có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn, ngoài việc mới đây chỉ gửi văn bản yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng cường an toàn tiền gửi, một hành động quá muộn và chỉ là hình thức.
---------------------
(1) https://news.zing.vn/pho-giam-doc-cn-eximbank-chiem-245-ty-cua-khach-hang-roi-bien-mat-post820974.html
(2) http://cafef.vn/vu-pho-giam-doc-eximbank-cuom-301-ti-bo-tron-nguoi-bi-hai-len-tieng-20180223132940891.chn
(3) http://doanhnghiepvn.vn/von-hoa-eximbank-giam-gan-500-ty-sau-tin-mot-sep-chi-nhanh-om-tien-bo-tron-d119163.htm

Sunday 25 February 2018

Giải quyết bằng thương lượng "kín" (Bài đăng trên TBKTSG, 25/2/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/td/269314/Giai-quyet-bang-thuong-luong-kin.html

Từ vụ việc một khách hàng VIP của Eximbank bị mất 245 tỉ đồng bị cho là do một cán bộ lãnh đạo chi nhánh của ngân hàng này chiếm đoạt khiến tôi nhớ đến một câu chuyện cụ thể cũng liên quan đến sự cố quản trị ngân hàng diễn ra ở Singapore và hai bên (ngân hàng và khách hàng) đã giải quyết thông qua hình thức thương lượng chứ không chờ đến phán quyết của tòa án.
Xin kể một vụ việc mà người viết được biết cụ thể tại Singapore. Một đồng nghiệp của tôi vay qua thẻ tín dụng của một ngân hàng lớn của Mỹ tại Singapore một khoản vay kỳ hạn 6 tháng, lãi suất là 2%/năm, trả tối thiểu 1% số dư hàng tháng. Nhân viên ngân hàng này đã sai ngay từ đầu khi không mở cho khách hàng một tài khoản (thẻ tín dụng) riêng để hạch toán riêng khoản vay này, mà sử dụng lẫn lộn một tài khoản thẻ hiện tại của khách hàng. Tiếp đó, hệ thống tính toán hóa đơn của ngân hàng đã không tách bạch số dư còn lại của khoản vay với những khoản chi tiêu khác của khách hàng trong tài khoản thẻ này để tính lãi phù hợp.


Tệ hại hơn, dù khách hàng đã trả vào tài khoản thẻ này nhiều đợt, mỗi đợt có giá trị lớn hơn nhiều khoản phải trả tối thiểu 1% số dư nợ vay hàng tháng (và lớn hơn nhiều số dư nợ chi tiêu khác của khách hàng phát sinh hàng tháng), nhưng ngân hàng này vẫn tính lãi suất phạt 26%/năm cho những khoản chi tiêu khác của khách hàng trong tài khoản thẻ. Chưa hết, ngân hàng đã đơn phương chấm dứt gửi bản sao kê giấy cho khách hàng, trong khi dịch vụ ngân hàng điện tử (online banking) thì lại không cho khách hàng biết một cách cụ thể và rõ ràng số tiền phải trả tối thiểu hàng tháng (khách hàng cũng không biết do ngân hàng đã trộn lẫn khoản vay với những khoản chi tiêu khác).
Người đồng nghiệp nói trên chỉ phát hiện ra sự sai sót này khi tất toán khoản vay vào tháng thứ 6. Anh đã yêu cầu ngân hàng giải trình cụ thể cách tính toán và chỉ ra những sự bất hợp lý và lỗ hổng trong hệ thống của ngân hàng này, như nêu ở trên. Ngân hàng này sau đó đã xin lỗi, thừa nhận làm sai và hứa hoàn trả lại mọi khoản tính thừa mà khách hàng đã phải trả.


Nhưng bản thân khách hàng vì quá bị ức chế với cung cách, chất lượng làm việc, phục vụ khách hàng tệ hại không thể tưởng tượng được ở một ngân hàng toàn cầu như vậy nên đã ra “tối hậu thư”, yêu cầu ngân hàng phải bồi thường một khoản tiền. Anh nói rõ là cho phép ngân hàng có 2 ngày làm việc để xem xét lời yêu cầu của anh. Sau thời hạn này, nếu ngân hàng không trả lời hoặc không chấp nhận yêu cầu thì anh sẽ tố cáo lên cơ quan chức năng của Singapore hoặc kiện ra tòa. Rốt cục, ngân hàng này đã liên hệ lại và thương lượng để trả một mức bồi thường thấp hơn.
Điều rút ra ở vụ việc này là mặc dù ở thế yếu, khi biết một mình sẽ “đọ” lại cả một đội ngũ chuyên gia với luật sư hùng hậu của ngân hàng nếu có phải khiếu nại vụ việc lên cơ quan chức năng hoặc đem vụ việc ra tòa nhưng anh đồng nghiệp biết rõ cái lý đúng nằm về phía mình cũng như sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình từ pháp luật, nên đã không ngần ngại đưa ra lời yêu cầu ngân hàng.


Phía ngân hàng cũng nhận thức rõ được sai lầm và yếu kém của mình, cũng như các hậu quả có thể phải hứng chịu (vi phạm nghiêm trọng các quy định an toàn hoạt động trong ngành, có thể dẫn đến những hình phạt hà khắc của nhà chức trách) nên đã không tìm cách “chối quanh” mà chủ động thương lượng mức bồi thường với khách hàng, thay vì để vụ việc vỡ lở và cuối cùng vẫn phải chịu thiệt hại lớn hơn ở nhiều mặt.
Quay trở lại với câu chuyện khách hàng VIP của Eximbank bị mất 245 tỉ đồng trong tài khoản tiết kiệm, cơ quan điều tra đã có kết luận là do một cán bộ lãnh đạo chi nhánh của ngân hàng này tại TPHCM chiếm đoạt, đối tượng này hiện đã bỏ trốn ra nước ngoài và đang bị truy nã. Trả lời báo giới, một vị lãnh đạo cấp cao của Eximbank đã cho biết ngân hàng hoàn toàn hiểu những búc xúc của khách hàng bởi đây là số tiền rất lớn và vụ việc đã kéo dài cả năm, nhưng ban điều hành cũng như HĐQT của Eximbank không thể giải quyết vụ việc chỉ dựa trên kết luận điều tra bởi về mặt pháp lý, kết luận của cơ quan điều tra không phải là phán quyết cuối cùng. Do vậy, hai bên cần sớm phối hợp để đưa vụ việc ra tòa thực hiện theo đúng trình tự tố tụng. Khi tòa án có phán quyết ngân hàng có trách nhiệm trả số tiền này thì Eximbank sẽ trả ngay.


Từ câu chuyện xử lý sự cố của các ngân hàng ở nước ngoài, có thể thấy Eximbank đã có thể lựa chọn phương án thương lượng với khách hàng để đạt được một mức bồi thường ổn thỏa, ít gây tổn hại nhất cho ngân hàng trên nhiều mặt. Để vụ việc công khai, ra đến tòa thì thường thiệt thòi cho ngân hàng nhiều hơn về mặt uy tín, thương hiệu.

Tuesday 20 February 2018

Giải pháp nào cho Việt Nam trong "cuộc chiến" thép? (Bài đăng trên TBKTSG, 20/2/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/269216/Giai-phap-nao-cho-Viet-Nam-trong-cuoc-chien-thep.html

Bộ Thương mại Mỹ đã đề xuất một số lựa chọn chính sách cho Tổng thống Trump gồm đánh thuế cao hoặc áp hạn ngạch lên thép và nhôm nhập khẩu từ thế giới vào Mỹ. Nếu các lời đề xuất này được lựa chọn, hoạt động xuất khẩu thép (và nhôm) của Việt Nam chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng mạnh, bởi mức thuế dự kiến sẽ tăng rất cao so với hiện tại hoặc bị giới hạn bởi hạn ngạch (thấp hơn lượng nhập khẩu năm 2017).


Cụ thể, về xuất khẩu thép của Việt Nam sang Mỹ, nếu như năm 2014, Việt Nam mới chỉ xuất được 35 ngàn tấn sắt thép các loại sang Mỹ trong tổng số 2,6 triệu tấn xuất khẩu ra thế giới trong năm đó (chiếm 1,3% trong tổng lượng sắt thép Việt Nam xuất ra thế giới). Nhưng con số này đã nhảy vọt lên nhiều lần trong năm 2015 (207 ngàn tấn và 8,1%) và đặc biệt là năm 2016 (931 ngàn tấn và 26,8%) trước khi dịu đi vào năm 2017 (523 ngàn tấn và 11,1%).
 
Xuất khẩu sắt thép và kim loại của Việt Nam sang Mỹ và ra thế giới. Nguồn: Tổng cục Hải quan

Cần lưu ý rằng năm 2015 và 2016 là thời kỳ khó khăn của ngành thép thế giới, chủ yếu bị tác động mạnh bởi sản lượng dư thừa quá lớn của Trung Quốc, buộc nước này tìm đường xuất khẩu ra thế giới, gây áp lực giảm giá sắt thép toàn cầu, đẩy không ít nhà sản xuất thép thế giới lâm vào cảnh thua lỗ trầm trọng. Chính phủ một số nước đã phản ứng lại cơn sóng nhập khẩu từ Trung Quốc bằng các biện pháp thuế quan hà khắc hơn lên thép nhập khẩu từ Trung Quốc.
Sau đó, một số nước như Mỹ và EU đã cáo buộc Trung Quốc “lách” các hàng rào thuế quan này bằng cách “mượn đường”, xuất khẩu thông qua một nước thứ ba, nơi được hưởng mức thuế thông thường khi xuất khẩu vào Mỹ. Việt Nam nổi lên như là một trong những điểm trung chuyển cho thép Trung Quốc trước khi vào các thị trường này, theo các cáo buộc của họ.
Quả thật, khó có thể giải thích một cách thỏa đáng sự tăng vọt về lượng xuất khẩu sắt thép của Việt Nam trong các năm 2015-16 vào Mỹ bởi năng lực sản xuất của các nhà sản xuất trong nước trong những năm này không có thay đổi đột biến, trong khi nhu cầu trong nước vẫn tăng trưởng khả quan. Và cũng là một sự trùng hợp “thú vị” khi nhập khẩu sắt thép cả Trung Quốc vào Việt Nam trong những năm này cũng tăng mạnh đến mức mà Việt Nam cũng phải xem xét và áp đặt một số biện pháp bảo hộ thép nội địa. Nên cũng khó có thể phủ nhận hoàn toàn khả năng một con số không nhỏ trong lượng sắt thép xuất khẩu sang Mỹ từ Việt Nam là có nguồn gốc từ thép Trung Quốc, ngoài khả năng nữa là có nhà sản xuất Việt Nam đã bán phá giá sản phẩm của mình vào thị trường Mỹ. Đây chính là những lý do để Mỹ đã và đang tiếp tục xem xét áp đặt các biện pháp trừng phạt lên thép xuất khẩu từ Việt Nam.
Trước viễn cảnh đối mặt với những biện pháp trừng phạt mới của Mỹ, Việt Nam khó có thể (hoặc không nên) học tập Trung Quốc hoặc một số nước khác đe dọa trả đũa Mỹ bằng các biện pháp tương tự áp lên hàng xuất khẩu của Mỹ vào Việt Nam. Bởi, trước tiên, Việt Nam phải chứng minh là “vô tội”, toàn bộ lượng thép xuất khẩu sang Mỹ là có nguồn gốc nội địa (luyện và gia công tại Việt Nam) chứ không phải chỉ là nhập khẩu từ Trung Quốc hoặc một nước nào đó rồi chế biến “qua loa” để xuất đi. Và các nhà sản xuất Việt Nam cũng phải chứng minh là sản phẩm của họ có giá thành rất cạnh tranh dù tuân thủ theo các điều kiện thị trường.
Tiếp đó, nếu Việt Nam muốn trả đũa thì cần hiểu rằng Việt Nam đang xuất siêu quá lớn với Mỹ (năm 2017, Việt Nam nhập khẩu 9,2 tỉ đô la từ Mỹ trong khi xuất khẩu sang Mỹ tới 41,6 tỉ đô la trên tổng số 214 tỉ đô la tổng kim ngạch xuất khẩu). Nói cách khác, thị trường Mỹ quá lớn, quá quan trọng với Việt Nam để Việt Nam chơi đòn ăn miếng trả miếng với Mỹ.
Ngoài ra, một cuộc chiến thương mại với Mỹ như cách các nước lớn khác thực hiện sẽ gây thiệt hại trực tiếp cho nền kinh tế Việt Nam trên giác độ là nó làm tăng chi phí nhập khẩu cho nhà sản xuất và người tiêu dùng Việt Nam. Sẽ có người lập luận rằng phần chi phí tăng lên này sẽ chảy vào ngân sách nhà nước dưới dạng thuế nhập khẩu nên chung quy lại thì cũng không thiệt thòi gì nhiều lắm.
Lập luận này dù có thể đúng một phần nào đó nhưng nhà sản xuất và nhập khẩu chắc chắn vẫn sẽ phản ứng lại bằng cách chuyển sang nhập khẩu các mặt hàng tương ứng từ những nước khác có thuế nhập khẩu thấp hơn. Nhưng do bởi tổng chi phí nhập khẩu về đến Việt Nam từ những nước khác sẽ vẫn cao hơn (do giá bán ban đầu cao hơn so với giá bán ở Mỹ, giả sử chất lượng tương đương) nên rốt cuộc chi phí sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam vẫn bị đội lên, tác động tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, trong khi lạm phát trong nước chịu áp lực tăng lên.
Trong bối cảnh này, điều Việt Nam có thể làm được là dùng giải pháp “mềm”, chứng minh cho Mỹ thấy sắt thép xuất khẩu của Việt Nam trên cơ sở cạnh tranh công bằng, có đầy đủ yếu tố thị trường, không phá giá, không gian lận thương mại (gồm để thép Trung Quốc đội lốt thép Việt Nam)… Về phía mình, Việt Nam cũng phải thắt chặt kiểm soát chất lượng, xuất xứ, chống gian lận thương mại và trừng phạt nặng tay những nhà sản xuất, xuất khẩu vi phạm.
Nếu đã thực sự chắc chắn làm tốt mọi điều mà Mỹ vẫn cố tình áp đặt trừng phạt lên sắt thép xuất khẩu của Việt Nam thì lúc này chỉ còn cách khả thi là kiện Mỹ ra WTO mà thôi.

Saturday 17 February 2018

Dự trữ ngoại hối kỷ lục gần 60 tỷ USD: Cao nhưng vẫn thấp (Bài đăng trên CafeF, 18/2/2018)

http://cafef.vn/du-tru-ngoai-hoi-ky-luc-gan-60-ty-usd-cao-nhung-van-thap-20180218090341246.chn

Thông tin cho thấy dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã liên tục phục hồi kể từ năm 2016 và tăng mạnh vào năm 2017, hiện đã đạt gần 60 tỷ USD, là mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay. Đây quả thật là một tin vui trong những ngày Tết Nguyên đán, đánh dấu sự tiếp tục cải thiện và củng cố các nền tảng kinh tế quốc gia.

Tuy nhiên, nếu quy con số dự trữ ngoại hối trên tương đương với số tháng nhập khẩu (tính theo kim ngạch) của Việt Nam thì thực tế cho thấy chúng ta vẫn còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để có thể tạm thời bằng lòng với thành quả này.
Cụ thể, hãy lấy mốc tháng 1/2018 để tính toán. Kim ngạch nhập khẩu tháng 1/2018 của cả nước là 20,04 tỷ USD. Và giả sử con số dự trữ ngoại hối gần 60 tỷ USD là con số đạt được trong tháng 1/2018 thì mức dự trữ ngoại hối mới chỉ tương đương với đúng 3 tháng nhập khẩu của Việt Nam. Con số này tuy là một sự cải thiện nhẹ so với 2,9 tháng trong năm 2017 và 2,8 tháng trong năm 2016 nhưng cũng chỉ vừa đúng bằng con số tối thiểu 3 tháng nhập khẩu mà thế giới khuyến nghị để có thể gọi quỹ dự trữ ngoại hối của một nước nào đó là đủ lớn trong việc đối phó với các cú sốc ngoại lai.
Hơn nữa, nếu so với 9 quốc gia thành viên của ASEAN khác thì có thể thấy mặc dù dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã liên tục được cải thiện trong hơn 2 năm gần đây nhưng con số này nếu quy ra số tháng nhập khẩu của Việt Nam vẫn thuộc dạng rất thấp so với khu vực, có thể chỉ cao hơn Myanmar và/hoặc Lào trong cùng khoảng thời gian, trong khi các nước khác đều có dự trữ ngoại hối tương đương với từ trên 6 tháng đến cả hơn 1 năm nhập khẩu của họ.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam và ASEAN tính theo tháng nhập khẩu
Dự trữ ngoại hối kỷ lục gần 60 tỷ USD: Cao nhưng vẫn thấp - Ảnh 1.
Nguồn: ADB và tổng hợp từ truyền thông trong nước
Sự so sánh nêu trên cho thấy Việt Nam cần phải một mặt tiếp tục bổ sung và củng cố dự trữ ngoại hối, mặt khác phải hạn chế tốc độ tăng trưởng nhập khẩu ở mức quá nhanh như hiện nay (20% năm 2017 và tới 52% trong tháng 1/2018) để đưa mức dự trữ ngoại hối từ mức đáy của khu vực lên ngang bằng với mức trung bình trong khu vực.
Cho dù tăng nhập khẩu là điều không thể tránh khỏi khi bản chất nền kinh tế vẫn là kinh tế gia công nên xuất khẩu tăng mạnh cũng sẽ lôi kéo theo nhập khẩu tăng mạnh (xuất khẩu tăng 21% năm 2017 và 41% tháng 1/2018) nhưng việc để tăng trưởng nhập khẩu với tốc độ xấp xỉ và thậm chí còn nhanh hơn cả tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cho thấy nền kinh tế vẫn còn tiếp tục dễ bị tổn thương và chưa được cải thiện nhiều về nền tảng cơ sở.
Ngoài ra, việc kiềm chế nhập khẩu không chỉ sẽ giúp ích trực tiếp cho việc làm lành mạnh dự trữ ngoại hối ở trên giác độ là làm tăng số tháng nhập khẩu quy đổi mà còn gián tiếp làm tăng dự trữ ngoại hối cũng như số tháng nhập khẩu quy đổi nhờ phần thặng dư thương mại (xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu) ngày càng tăng lên, cuối cùng thì cũng sẽ được bổ sung trực tiếp vào quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia.
Như vậy, có thể nói rằng điều quan trọng hơn với và là hướng tiếp tục phấn đấu nỗ lực cho Việt Nam hiện nay là phải tiếp tục đạt được thặng dư thương mại ngày càng lớn, thay vì quá chăm chú và an lòng với sự tăng nhanh về con số tuyệt đối của dự trữ ngoại hối như trong thời gian vừa qua. 

Friday 16 February 2018

Chuyện phiếm về Tết (Bài đăng trên CafeF, 16/2/2018)

http://cafef.vn/chuyen-phiem-ve-tet-20180213130026101.chn

Tết đến, dòng người hối hả ngược xuôi về quê, ra phố, tất bật, ùn tắc, tai nạn, mệt mỏi, tốn kém, sinh hoạt đảo lộn. Tết là vậy. Nên có nhiều người chán ngán, ghét Tết, đòi bỏ Tết hay đỡ hơn thì gộp Tết Âm lịch với Tết Dương lịch để cho tốt trên mọi phương diện. Nhưng với rất nhiều người còn lại, Tết và nghỉ Tết là niềm vui, là món quà quý giá.
Giả sử Tết (Âm lịch) bị cho biến mất, cùng với đó là kỳ nghỉ Tết liên tục 5 ngày, 7 ngày, thậm chí là 10 ngày. Người công nhân xa nhà, trước đây một năm mới có dịp được về quê đoàn tụ với gia đình một lần nay biết về lúc nào đây? Nghỉ phép ư? Họ còn đang phải tranh thủ, tận dụng mọi cơ hội để được làm thêm giờ, tăng ca nhằm kiếm thêm chút tiền tích cóp gửi về quê cho mẹ già, con nhỏ. Gánh nặng cơm áo gạo tiền trĩu nặng trên đôi vai gầy đó đâu cho họ được hưởng thứ xa xỉ đó?
Và nếu nghỉ hết phép để về quê, họ sẽ xoay xở thế nào đây mỗi khi có việc đột xuất cần nghỉ trong cả năm còn lại? Và nữa, nhiều công ty đâu có thích thú gì cho công nhân nghỉ phép liên tục trong một số ngày, ít ra vì điều này cũng làm ảnh hưởng đến dây chuyền sản xuất của họ, nhất là những thời kỳ cao điểm "chạy" cho kịp đơn hàng.
Những người làm dâu, làm rể phương xa, Tết đến lại nếm trải cảnh một chốn đôi ba nơi. Các nàng dâu thì hãi hùng với cảnh bếp núc nơi nhà chồng. Nhưng nếu không có Tết, không lẽ họ sẽ thoát được cảnh (cả năm) không phải về nhà chồng, không phải quà cáp, thăm hỏi họ hàng chồng, không phải tất bật với cảnh bếp núc cho những bữa cơm đoàn tụ đại gia đình? Vậy thì Tết đâu có lỗi, đâu có phải chỉ có Tết mới gây ra lắm phiền nhọc cho con người?
Ngược lại, nhờ có Tết, hầu như ai cũng được nghỉ làm, nên Tết là dịp họ hàng, gia đình, bạn bè đoàn tụ, gặp gỡ. Với nhiều người, Tết là dịp duy nhất trong năm gặp lại được nhiều người khác vốn bị nhịp sống đời thường hối hả cuốn đi khắp mọi miền. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhiều nước trên thế giới có những kỳ nghỉ lễ dài để mọi người được sống chậm lại trong vui vẻ, hạnh phúc, đoàn viên. Tất nhiên vẫn có những người chẳng quan trọng chuyện đoàn tụ, gặp gỡ này nên Tết vẫn là thứ mệt nhọc, thừa thãi với họ. Nhưng thử hỏi có được mấy người như thế?
Giả sử Tết Âm lịch bị cho biến mất hoặc gộp với Tết Dương lịch. Đến đây, có hai kịch bản. Số ngày nghỉ lẽ ra là dành cho Tết Âm lịch sẽ bị hủy. Hoặc số ngày nghỉ này được ghép vào kỳ nghỉ Tết Dương lịch.
Ở kịch bản thứ nhất, rõ ràng là chẳng mấy ai, nhất là người lao động, thích thú đón nhận, trừ khi Nhà nước cho nghỉ bù (hoặc cộng thêm vào ngày nghỉ phép). Và xét trên góc độ số ngày lao động làm ra của cải vật chất hay năng suất lao động mà một số chuyên gia chỉ ra, nếu Nhà nước cho nghỉ bù thì có Tết Âm lịch hay không, nền kinh tế vẫn bị thiệt hại tương tự do người lao động vẫn được nghỉ thêm một số ngày như khi họ nghỉ Tết Âm lịch.
Trong kịch bản thứ hai, sự khác biệt duy nhất ở đây là kì nghỉ Tết trở nên dài hơn. Còn lại, mọi sự tổn thất, phiền nhọc mà Tết mang lại cho một số người thì vẫn sẽ còn nguyên đó như khi họ "phải" nghỉ Tết Âm lịch tách rời như trước đây. Thiệt hại, nếu có, của Tết (Âm lịch) mang lại cho toàn xã hội hoàn toàn không thay đổi.
Xin được chuyển sang góc độ ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng của Tết Âm lịch. Gìn giữ Tết Âm lịch là gìn giữ được một nét văn hóa, tín ngưỡng lâu đời của dân tộc. Có không ít người nói đây chỉ là văn hóa và tín ngưỡng của dân tộc Kinh chứ không phải của vài chục dân tộc khác đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Theo họ, nếu dân tộc Kinh có Tết của riêng mình và được nghỉ Tết thì các dân tộc khác cũng phải được hưởng quyền tương tự một cách bình đẳng. Điều này về logic không sai nhưng… không thể thực hiện! Vì nó cũng tương tự như việc không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo khác vẫn phải chọn ra một (số) ngôn ngữ làm quốc ngữ, một (số) tôn giáo làm quốc giáo v.v…
Cũng có người lập luận rằng phong tục ăn Tết Âm lịch thực ra là của người Hoa, chứ cũng chẳng phải là của người Việt (Kinh), nên xóa bỏ Tết Âm lịch thì cũng chỉ giống như xóa bỏ một thứ văn hóa ngoại lai. Điều này chỉ… hơi hơi đúng! Bởi dù có nguồn gốc ngoại lai nhưng rốt cuộc đã được người Việt tiếp thu, "thuần hóa", biến thành của người Việt từ cả ngàn năm nay. Mà nếu xét một cách thật sự công bằng, có thứ văn hóa, tín ngưỡng phổ biến nào trên thế giới hiện nay lại không phải là kết quả của một quá trình khuyếch tán từ nơi sản sinh và được du nhập  (và biến dạng) vào nước sở tại sau một quá trình lâu dài nhiều năm?
Vậy thì hãy để Tết đến và vui với Tết như thường lệ. Hãy cùng nhau giữ gìn những nét đẹp của Tết và xóa bỏ những hủ tục, tác động xấu của Tết (như chuyện đốt pháo). Và xin đừng "vùi dập" Tết chỉ vì nó không mang lại niềm vui, hạnh phúc cho mình!

Wednesday 14 February 2018

Rủi ro tăng trưởng tín dụng cao của Việt Nam (Bài đăng trên TBKTSG, 15/2/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/268887/Rui-ro-tang-truong-tin-dung-cao-cua-Viet-Nam.html


Cuối tháng trước, Moody’s, một trong những tổ chức xếp hạng tín dụng chủ chốt trên thế giới, trong một email trả lời các câu hỏi (của giới báo chí?) và được đăng tải trên một số nguồn như Bloomberg (1), đã đưa ra cảnh báo rủi ro đi kèm với tăng trưởng tín dụng cao cho Việt Nam.

Việc cảnh báo về rủi ro đi kèm với tăng trưởng tín dụng cao ở Việt Nam đã từng được Moody’s đề cập đôi lần mà mới đây nhất là hồi tháng 10 năm 2017 khi họ nâng cấp triển vọng của hệ thống ngân hàng lên thành tích cực từ mức ổn định trước đó. Cũng dịp đó, trong những cuộc thảo luận tại Singapore với người viết về tình hình sức khỏe của hệ thống tài chính Việt Nam, tổ chức này cùng với các tổ chức xếp hạng tín dụng chủ chốt khác như Standard and Poor's và Fitch cũng đều bày tỏ mối quan ngại tương tự cho Việt Nam.

Không phải là vô cớ mà các tổ chức xếp hạng tín dụng nói riêng và các tổ chức quốc tế đa phương nói chung như World Bank và IMF đều chung một mối quan ngại với Việt Nam. Lý do có lẽ nằm ở quan niệm của họ rằng, đối với Việt Nam, thông thường tăng trưởng kinh tế đòi hỏi tăng trưởng tín dụng phải ở mức tương ứng (tỷ lệ thuận). Do đó, khi Chính phủ nhắm mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn thì cũng có nghĩa là họ sẽ phải thực thi một chính sách tiền tệ nới lỏng tương ứng, làm tăng rủi ro bất ổn vĩ mô và nợ xấu.

Trở lại với cảnh báo cuối tháng trước và được trích dẫn bởi Bloomberg, Moody’s nhận định rằng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ có thể tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ trung lập thiên về nới lỏng trong bối cảnh Chính phủ tiếp tục chú trọng hơn đến thúc đẩy tăng trưởng. Theo Moody’s, chính sách tiền tệ nới lỏng hơn sẽ làm xói mòn ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng cao. Nếu tăng trưởng tín dụng được đẩy cao hơn nữa thì nó sẽ làm tăng rủi ro cho hệ thống ngân hàng do làm suy yếu cơ sở vốn của các ngân hàng.

Do Moody’s không cho biết cụ thể thêm nên khó có thể biết cơ sở cũng như bằng chứng để Moody’s đưa ra cảnh báo rủi ro tăng trưởng tín dụng cao để nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Nhưng Bloomberg trích dẫn ý kiến của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng tăng trưởng kinh tế năm nay có thể đạt tốc độ như của năm 2017 là 6,8%, cao hơn so với mục tiêu Chính phủ đặt ra là 6,7%, như để minh họa cho ý của Moody’s rằng Chính phủ đang tiếp tục cố gắng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ở một vế khác, cũng không rõ Moody’s dựa vào đâu để nhận định rằng NHNN có thể sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ thiên nới lỏng. Trong khi đó, Bloomberg nêu ra rằng tốc độ tăng trưởng cho vay năm 2017 là 18,2% và “NHNN dự đoán” tăng trưởng cho vay năm nay ở mức 17%. Thêm vào đó, Bloomberg cũng trích dẫn cảnh báo của World Bank hồi tháng 12 rằng tăng trưởng tín dụng cao sẽ khuyến khích cho vay các lĩnh vực rủi ro và làm xấu đi chất lượng tài sản. Bằng việc đưa ra những số liệu và nhận định này dường như Bloomberg muốn chứng minh rằng đang có xu hướng nới lỏng tiền tệ ở Việt Nam kèm theo đó là những hậu quả tiêu cực, phù hợp với cảnh báo của Moody’s.

Tuy nhiên, nếu những con số và dự đoán như trên là đúng thì người ta phải thấy rằng tình hình thực ra đang không diễn biến theo chiều hướng rủi ro hơn, nếu không muốn nói ngược lại là đang được kiểm soát theo hướng tốt hơn, theo đúng định hướng chính sách tiền tệ của NHNN được trích dẫn bởi Bloomberg là sẽ “quản lý tăng trưởng tín dụng một cách linh hoạt và thận trọng để hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn hạn chế được rủi ro trong một số ngành kinh tế”.

Cụ thể hơn, rõ ràng là con số tăng trưởng tín dụng 18,2% đạt được trong năm 2017 là thấp hơn đáng kể mục tiêu ít nhất là 21-22% mà Thủ tướng Chính phủ đặt ra trước đó, trong năm 2017, cho NHNN. Điều này chứng tỏ sự thận trọng đáng ghi nhận của NHNN khi đã không cố gắng “ép” tín dụng của hệ thống ngân hàng phải tăng nhanh hơn nữa theo ý chí của Chính phủ. Nói cách khác, tuy chính sách tiền tệ của NHNN vẫn có xu hướng nới lỏng nhưng sự nới lỏng là có mức độ, được dựa trên những căn cứ xác đáng như diễn biến của lạm phát và lãi suất. Và cũng cần lưu ý thêm rằng tăng trưởng tín dụng năm 2017 cũng chỉ tương đương như năm 2016, mặc dù (nhu cầu tăng trưởng tín dụng để thúc đẩy) tăng trưởng kinh tế là cao hơn nhiều so với năm 2016.

Sang năm 2018, như trích dẫn của Bloomberg, NHNN còn thể hiện sự thận trọng hơn nữa khi “dự báo” tăng trưởng tín dụng chỉ là 17% mặc dù tăng trưởng kinh tế năm nay, nếu đúng như mục tiêu mà Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nêu  ra, vẫn bằng năm 2017. Đó là chưa kể khả năng năm nay lạm phát ở Việt Nam sẽ đạt mức cao hơn năm trước (ít nhất là do yếu tố giá cả thế giới đã và đang gia tăng song hành với một đồng đô la Mỹ suy yếu) và điều này sẽ buộc NHNN – được Quốc hội “trói” bằng chỉ tiêu kiềm chế lạm phát – phải thận trọng với tăng trưởng cung tiền hơn nữa (và có nghĩa là hạ thấp tốc độ tăng trưởng tín dụng hơn nữa).

Như vậy, rõ ràng là dường như đang diễn ra xu hướng có thể coi là “nghịch lý” ở Việt Nam trong nhiều năm qua, ít nhất là nhìn từ góc độ các con số thống kê chính thức, là tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng cao hơn còn tốc độ tăng trưởng tín dụng lại có xu hướng giảm tốc, không nhất thiết giống như mối quan ngại của Moody’s và các tổ chức khác. Và điều này cần được tiếp tục nghiên cứu, mổ xẻ để Chính phủ có thêm cơ sở tiếp tục điều hành nền kinh tế theo đúng xu hướng tích cực này.

 ___________

1. Xem trong đường dẫn sau: https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-01-28/moody-s-cautions-vietnam-against-easing-monetary-policy-further

Hoặc: http://www.businesstimes.com.sg/government-economy/moodys-cautions-vietnam-against-easing-monetary-policy-further

Monday 12 February 2018

Tết đến nói chuyện thống kê (Bài đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 13/2/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/269080/Tet-den-noi-chuyen-thong-ke.html

Năm hết, Tết đến, số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK) cho hay chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1-2018 tăng 0,51% so với tháng trước, tăng 2,65% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây.


Theo lý giải của TCTK, lạm phát của tháng 1-2018, tháng giáp Tết Nguyên đán Mậu Tuất 2018, tăng là điều dễ hiểu, khi mà đây là tháng có Tết Dương lịch và là tháng giáp Tết Nguyên đán, cũng là thời điểm nhu cầu tiêu dùng, mua sắm bắt đầu tăng.
Ngoài ra, bên cạnh những lý do “khách quan” khác như ngành điện tăng giá điện, ngành y tế tăng mức phí khám chữa bệnh v.v…, TCTK còn cho rằng lạm phát tháng 1-2018 tăng là do tháng cuối năm nhu cầu sửa chữa nhà cửa tăng làm cho giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,35%, giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,38%.
Giải thích trên của TCTK xem ra cũng có lý, vì rõ ràng là trong tháng giáp Tết thì ai hầu như cũng hối hả với việc chi tiêu, mua sắm, không mua sắm đồ ăn Tết thì cũng mua sắm đồ trang trí hoặc mua… quà biếu sếp, dẫn đến nhu cầu tiêu dùng tăng vọt. Và vì cũng là tháng giáp Tết nên nhiều gia đình có nhu cầu sửa chữa nhà cửa cho khang trang hơn để đón năm mới. Bởi thế, TCTK cứ đều đặn hàng năm vào tháng 1 hoặc những tháng có nhu cầu tiêu dùng của xã hội tăng vọt, ví dụ như tháng 8 (là tháng giáp với tháng có khai giảng năm học mới) đều tích cực vận dụng lại công thức “là tháng có nhu cầu tiêu dùng, mua sắm bắt đầu tăng” để giải thích hiện tượng CPI tăng mạnh và hầu như chẳng có ai, kể cả giới chuyên gia, thắc mắc hay phản đối gì.
Tương tự, vào quí 1 hàng năm, tốc độ tăng trưởng GDP thường là thấp nhất so với 3 quí còn lại của năm trong bất cứ năm nào. Ngoài một số lý do cụ thể nào đó, TCTK và một số lãnh đạo ngày giải thích sự tăng trưởng chậm chạp này là do quí 1 là quý có hai cái Tết, Dương lịch và Nguyên đán, nên có nhiều ngày nghỉ, làm gián đoạn hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến tăng trưởng GDP. Và rồi lời giải thích này cũng luôn làm yên lòng dư luận bởi xem ra… quá đúng!
Nhưng không cần phải ngẫm kỹ lắm thì cũng sẽ nhận ra sự bất ổn trong lời giải thích mang tính “thời vụ” (seasonal; không phải tháng nào cũng vậy) kiểu trên. Vì lạm phát mà ta đang nói đến ở đây là lạm phát hàng tháng, thể hiện tốc độ tăng giá cả tiêu dùng của một tháng cụ thể nào đó so với cùng tháng đó ở năm trước liền kề. Có nghĩa là tháng 1 này năm trước cũng là tháng có Tết Dương lịch và giáp Tết Nguyên đán. Vậy mà sao lạm phát của tháng 1 (những) năm trước lại thấp hơn lạm phát của tháng 1 năm nay?
Cũng giống như vậy là chuyện tăng trưởng GDP. Cũng là quí 1, nhưng tại sao tăng trưởng GDP của quí 1 của năm nào đó lại chậm hơn của (những) năm trước đó, mặc dù quí 1 năm nào cũng đều có 2 cái Tết, với số ngày nghỉ gần tương tự nhau?
Vậy thì, rõ ràng, những yếu tố mang tính thời vụ như trên không phải là, không được phép trở thành lý do để biện minh hoặc dùng để giải thích cho bất cứ sự bất thường nào đó về kinh tế, xã hội. Hay nói ngược lại, chính bởi tính thất thường, thời vụ như vậy mà người ta phải dùng đến phép so sánh trong cùng giai đoạn, cùng thời kỳ, thời điểm để loại bỏ những “nhiễu” thống kê này nhằm có được những con số thống kê có ý nghĩa.
Cần lưu ý thêm rằng các cơ quan thống kê thế giới đều tiến hành thu thập số liệu lạm phát cơ bản (loại trừ biến động giá cả của lương thực, thực phẩm tươi sống, xăng dầu…) như là một nỗ lực để loại bớt ảnh hưởng của yếu tố thời vụ (ví dụ, do mất mùa ở một nước nào đó làm tăng giá nhập khẩu lương thực thế giới, kéo theo giá lương thực trong nước).
Mặc dù TCTK cũng thu thập và công bố số liệu về lạm phát cơ bản hàng tháng nhưng điều đáng tiếc là họ lại thường không cung cấp giải thích cần thiết tại sao lạm phát cơ bản của, ví dụ, tháng 1/2018 lại tăng 0,18% so với tháng trước và tăng 1,18% so với cùng kỳ, nhờ đó giúp cho giới làm chính sách và công luận hiểu được thực sự điều gì đang xảy ra với lạm phát (và tăng trưởng) và làm thế nào để kiềm chế lạm phát (và phục hồi tăng trưởng).
Do đó, mong là từ nay về sau chúng ta sẽ không phải được nghe chuyện nghỉ Tết với tăng tiêu dùng và nhu cầu sửa chữa nhà cửa trước Tết như là một cái cớ hoàn hảo cho sự tăng lên về lạm phát hay chậm lại về tăng trưởng GDP ở Việt Nam. Thay vào đó, lý do nền tảng đằng sau hiện tượng giá cả tăng lên và tăng trưởng chậm lại là những điều cần được báo cáo, phân tích và mổ xẻ kịp thời, thấu đáo để đưa ra được những giải pháp xử lý thích hợp nhất có thể.

Sunday 11 February 2018

Những điều ít được biết đến về CPTPP (Bài đăng trên CafeF, 11/2/2018)

http://cafef.vn/nhung-dieu-it-duoc-biet-den-ve-cptpp-20180210220645.chn

11 nước thành viên của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã hoàn tất đàm phán vào ngày 23/1 năm nay để đi đến ký kết chính Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), còn được gọi là TPP-11 dự kiến vào ngày 8/3 sắp tới tại Chile. Tuy vậy, vẫn còn nhiều điều về CPTPP chưa được đề cập đến rộng rãi ở Việt Nam.
Lợi ích
Điều thu hút sự quan tâm lớn nhất và trước tiên của công dân bất cứ quốc gia nào khi quốc gia đó tham gia một hiệp định thương mại tự do là những lợi ích mang lại cho mình. Trên nghĩa này, CPTPP tạo thuận lợi hơn cho hàng hóa và đầu tư của Việt Nam nói riêng và các nước thành viên nói chung tiếp cận một thị trường rộng lớn ở châu Á Thái Bình Dương gồm Nhật, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới và là đối tác thương mại lớn của nhiều nước thành viên, nơi hiện vẫn đang có sự bảo hộ thương mại với biểu thuế cao và nhiều rào cản khác.
CPTPP cũng có những thỏa thuận mạnh mẽ về môi trường và lao động, mạnh hơn tất cả các hiệp định thương mại tự do trên thế giới đã ký kết từ trước đến nay. Về môi trường, các điều khoản thỏa thuận trong CPTPP sẽ giúp bảo vệ môi trường nước sở tại thông qua việc yêu cầu các bên liên đới tuân thủ các thỏa thuận quốc tế (về bảo vệ) môi trường và dùng những thỏa thuận này để giải quyết các tranh chấp. Hiệp định còn có điều khoản về trợ cấp đánh bắt hải sản dẫn đến đánh bắt quá mức, cũng như quy định nghĩa vụ cho các nước thành viên xử lý việc mua bán thực vật và động vật hoang dã bất hợp pháp. 
Các thỏa thuận về lao động nhằm bảo vệ và thực thi các quyền lao động, cải thiện điều kiện làm việc và chất lượng sống, thắt chặt sự phối hợp trong các tranh chấp lao động v.v... Và đây là lần đầu tiên, trong khuôn khổ CPTPP, các vấn đề về lao động được giải quyết qua cơ chế giải quyết tranh chấp, đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ giữa các công ty bản địa và nước ngoài với người lao động tại tất cả các nước thành viên. Điều này giúp bảo đảm rằng không một nước thành viên nào thu được lợi thế cạnh tranh thương mại nhờ có luật lao động lỏng lẻo và không được thực thi nghiêm túc.
Với những ưu việt của nó, CPTPP được kỳ vọng sẽ thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều thành viên mới trong tương lai, không ngoại trừ cả Mỹ và thậm chí là Trung Quốc (nếu được các nước  thành viên hiện thời đồng ý). Điều này càng tạo thêm thuận lợi cho sự tiếp cận các thị trường mới khổng lồ của các nước thành viên hiện tại, trong đó có Việt Nam.
Chủ quyền quốc gia
Dù có nhiều điểu khoản thỏa thuận ở mức cao, gồm quyền của doanh nghiệp nước ngoài kiện Chính phủ, nhưng CPTPP không tước đi quyền được có các lựa chọn phù hợp với lợi ích quốc gia nhất của Chính phủ các nước thành viên. Trong mọi trường hợp, các nước thành viên luôn có quyền rút ra khỏi hiệp định trong tương lai nếu họ muốn vậy.      
Cụ thể hơn, CPTPP vẫn giành cho các Chính phủ thành viên quyền chế tài nhằm đảm bảo các lợi ích công cộng của quốc gia mình, gồm các lĩnh vực như hệ thống y tế, cung cấp dược phẩm, giáo dục công cộng, môi trường, và an ninh quốc gia v.v... 
Quyền chủ quyền của các nước thành viên còn được thể hiện cụ thể bằng việc tiếp tục được phép giám sát và hạn chế đầu tư nước ngoài vào những khu vực nhạy cảm (về, ví dụ, đất đai và hạn chế đánh bắt hải sản), và hạn chế người nước ngoài được sở hữu nhà.
CPTPP  cũng không cấm đoán các nước thành viên thành lập mới các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Và cũng chỉ các DNNN ở một quy mô (về doanh thu thương mại) đủ lớn nào đó mới là đối tượng chế tài của CPTPP. Ngoài ra, các điều khoản quy định về DNNN của CPTPP không áp dụng với các đơn vị chăm sóc y tế cơ sở, viện nghiên cứu, các tổ chức và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế công cộng v.v...
CPTPP cũng không có một điều khoản nào ngăn cấm các nước thành viên được quốc hữu hóa các công ty tư nhân trong tương lai. Tất nhiên, khi quốc hữu hóa, các Chính phủ được kỳ vọng sẽ phải bồi thường thỏa đáng cho các chủ sở hữu công ty tư nhân theo luật lệ quốc tế và trong nước.
Và cũng giống như với các hiệp định thương mại tự do đa phương khác, CPTPP khẳng định lại cam kết của các nước thành viên không cố ý lạm dụng các quy định của CPTPP cho các mục đích công cộng không chính đáng dưới dạng các rào cản thương mại mang tính phân biệt đối xử bất hợp lý. 
Những khác biệt
Do không có sự tham dự của Mỹ, thành viên chủ chốt của TPP, nên CPTPP tất yếu có những nội dung khác biệt với của TPP. Cụ thể, có 20 điều khoản của TPP đã bị đình chỉ trong các lĩnh vực gồm đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Trong  lĩnh vực sở hữu trí tuệ, TPP sẽ làm vô hiệu hóa một số luật và thông lệ của các nước thành viên trong việc bảo vệ các dược phẩm mới không bị cạnh tranh bởi các thuốc gốc (generic drug). Trong khuôn khổ của CPTPP, không có yêu cầu nào cho các nước thành viên thay đổi các luật và thông lệ đối với các dược phẩm mới gồm cả chế phẩm sinh học. Các nước thành viên cũng đồng ý đình chỉ nghĩa vụ gia hạn thời hạn bản quyền trong những trường hợp có những sự trì hoãn bất hợp lý trong việc cấp bản quyền cũng như cấp phép nhập khẩu một loại thuốc nào đó vào các nước thành viên.
Ngoài ra, một số quy định về sở hữu trí tuệ có trong TPP cũng bị đình chỉ trong CPTPP. Chẳng hạn, các nước thành viên không còn phải gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền lên 70 năm (từ 50 năm), và điều này giúp làm giảm chi phí hữu hình cho các nước thành viên của CPTPP so với TPP. Có tổng cộng 11 quy định về sở hữu trí tuệ của TPP đã bị đình chỉ trong CPTPP.
Về Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và Nhà đầu tư (ISDS), CPTPP vẫn bảo lưu ISDS nhưng có sự giảm bớt về phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện Chính phủ nước thành viên sở tại. Theo đó, trong khuôn khổ CPTPP, các công ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ không được phép sử dụng cơ chế ISDS để kiện Chính phủ nước sở tại nếu đó là tranh chấp về hợp đồng. 
Lưu ý rằng công ty sở tại không được sử dụng ISDS để khởi kiện Chính phủ nước sở tại, mặc dù công ty sở tại có thể sử dụng ISDS để khởi kiện Chính phủ của một nước thành viên khác. ISDS chỉ liên quan đến các tranh chấp về các điều khoản đầu tư của CPTPP.  
Và cũng cần lưu ý rằng các công ty không có quyền quyết định lập ban trọng tài của ISDS. CPTPP có điều khoản về việc này, theo đó, ban trọng tài có ba thành viên, một do Chính phủ cử ra, một do nguyên đơn lựa chọn, và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ và nguyên đơn lựa chọn. 

Thursday 8 February 2018

Siết nhập khẩu ô tô: Cẩn trọng kẻo "gậy ông đập lưng ông" (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 9/2/2018)

https://doanhnhansaigon.vn/chuyen-lam-an/siet-nhap-khau-o-to-can-trong-keo-gay-ong-dap-lung-ong-1084054.html

Chính phủ đã và đang tiếp tục ban hành một số chính sách với mục tiêu rõ ràng là bảo hộ ngành sản xuất, lắp ráp ô tô nội địa trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ ô tô nhập khẩu, đặc biệt khi thuế suất đánh lên ô tô nhập khẩu từ khu vực ASEAN được giảm về 0%. 
Điển hình trong các chính sách bảo hộ ô tô sản xuất, lắp ráp nội địa là các chính sách (đã ban hành hoặc đang được đề xuất) như điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện và phụ tùng theo nguyên tắc thấp hơn (thậm chí là giảm về 0%) so với thuế suất thuế ô tô hoàn chỉnh nhập khẩu, điều chỉnh giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt thấp hơn cho ô tô có tỷ lệ nội địa hóa cao so với ô tô nhập khẩu (trừ đi phần giá trị linh kiện sản xuất trong nước), và đáng kể nhất là chính sách siết nhập khẩu ô tô bằng hàng rào kỹ thuật với nhiều điều kiện chặt chẽ, nghiêm ngặt và các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật khác do Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Khoa học và Công nghệ sắp ban hành.
Ai hưởng lợi?
Những chính sách "chơi khó" nói trên đã được nhiều người ca ngợi là toàn diện, tích cực, vừa hỗ trợ cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, giảm nhập khẩu, vừa làm lợi cho người tiêu dùng. Quả thật những chính sách thuế và kỹ thuật mới đã lập tức phát huy tác dụng, ngăn chặn hữu hiệu ô tô nhập khẩu kể từ đầu năm đến nay.
Ngược lại, đương nhiên là sản lượng và doanh số của các hãng ô tô nội địa và nước ngoài tại Việt Nam đã tăng mạnh, đồng thời giá bán sản phẩm của nhiều hãng ô tô trong nước cũng được kỳ vọng giảm đáng kể do được hưởng lợi từ thuế nhập khẩu linh kiện thấp hơn, càng kích thích người tiêu dùng Việt Nam lựa chọn xe nội địa khi chênh lệch giá giữa xe nội địa và xe nhập khẩu khá lớn. Như vậy, người hưởng lợi trước tiên là các hãng ô tô đang và sẽ sản xuất, lắp ráp xe trong nước, kế đến là người tiêu dùng.
Về lý thuyết, do nhu cầu ô tô lắp ráp và sản xuất trong nước tăng mạnh nên sẽ kéo theo nhu cầu linh kiện, thiết bị sản xuất trong nước đáp ứng doanh số ô tô hoàn chỉnh tăng lên. Bởi vậy, nhiều người cũng hy vọng chính sách bảo hộ mới của Việt Nam sẽ thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ ô tô phát triển, dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa ngày càng được cải thiện và giúp giảm giá thành sản phẩm, đồng thời tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động trong nước.
Mặt trái
Nhưng điều đáng lưu ý là kịch bản hoàn hảo trên không nhất thiết xảy ra tại Việt Nam, ít nhất trong ngắn và trung hạn. Thuế suất linh kiện nhập khẩu hoặc đã về 0%, hoặc giảm thấp hơn thuế suất thuế nhập khẩu ô tô hoàn chỉnh đương nhiên sẽ kích thích và vô hình trung khuyến khích các hoạt động lắp ráp ô tô hoàn chỉnh tại Việt Nam với đa số linh kiện nhập khẩu, thay vì mua linh kiện sản xuất trong nước với giá thậm chí đắt hơn (ít nhất là do quy mô sản xuất nhỏ hơn và trình độ sản xuất cũng như kinh nghiệm tổ chức sản xuất thấp hơn của nước ngoài).
Vậy thì ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam với các chính sách bảo hộ mới chắc chắn sẽ na ná như ngành công nghiệp điện tử gồm cả điện thoại thông minh, "có tiếng nhưng không có miếng", chỉ dừng lại ở lắp ráp với một phần nhỏ giá trị gia tăng từ "công nghiệp phụ trợ", chủ yếu là bao bì...
Điều này có nghĩa hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan dựng lên chặn ô tô nhập khẩu vào Việt Nam hoàn toàn không đồng nghĩa với tạo ra thuận lợi cho ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam ở khía cạnh góp phần xây dựng ngành công nghiệp ô tô hoàn chỉnh đúng nghĩa với đầy đủ chuỗi giá trị từ sản xuất linh kiện, phụ kiện đến lắp ráp hoàn chỉnh.
Cũng nên nhớ lại từ hơn 20 năm trước, hàng loạt hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan cũng đã được dựng lên với mong muốn củng cố ngành công nghiệp ô tô non trẻ tại Việt Nam, nhưng kết quả không như mong đợi.
Với người tiêu dùng, quả thật giá một vài mẫu xe của một số hãng trong nước có thể giảm nhưng họ đã bị tước mất sự lựa chọn phong phú từ ô tô nhập khẩu. Ảnh hưởng tiêu cực chưa dừng lại ở đây, vì ô tô nguyên chiếc nhập khẩu hầu như bị chặn đứng hoặc nhập với số lượng nhỏ giọt (và giá cao) nên các hãng sản xuất trong nước "thích" sản xuất, lắp ráp mẫu nào (có lợi nhất) người tiêu dùng cũng phải mua, vì đơn giản là họ không có nhiều lựa chọn.
Ngoài ra, do không còn bị ô tô nhập khẩu "ngáng chân" nên các hãng ô tô trong nước dần dần có điều kiện kiểm soát, lũng đoạn thị trường, áp đặt giá bán và chính sách do mình đặt ra, người tiêu dùng chỉ còn biết chấp nhận. Vì thế, nhìn chung, khó có thể nói chính sách bảo hộ ô tô trong nước sẽ làm lợi cho người tiêu dùng.
Tóm lại, các cơ quan chức năng cần xem lại bài học kinh nghiệm từ quá khứ, tham khảo kinh nghiệm bảo hộ trên thế giới, và đặc biệt lưu ý đến bối cảnh tự do hóa thương mại trong các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương mà Việt Nam đã và sắp là thành viên để nhận thức được những mặt trái và cả giới hạn của các chính sách bảo hộ của mình (điều gì được và không được làm theo các thỏa thuận thương mại tự do) để có sự điều chỉnh cho phù hợp.

Monday 5 February 2018

Vì sao có "diễn biến lạ" của các cặp tỷ giá? (Bài đăng trên CafeF, 5/2/2018)

http://cafef.vn/vi-sao-co-dien-bien-la-cua-cac-cap-ty-gia-2018020517565263.chn

Gần đây thị trường ngoại hối chứng kiến những diễn biến trái chiều của các cặp tỷ giá VND với các ngoại tệ chính.
Chẳng hạn, tính đến ngày 5/2/2018, trong khi VND khá ổn định (chỉ mất giá không đáng kể 0,6%, chủ yếu trong mấy ngày gần đây) so với USD so với đúng 1 năm trước thì VND lại mất giá ở mức lớn hơn rất nhiều so với các ngoại tệ khác.
Một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là USD cũng suy yếu đáng kể so với hầu hết các ngoại tệ khác, trong khi VND lại được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) "neo" khá chặt vào USD, dẫn đến VND mất giá đáng kể nếu so với các ngoại tệ khác.
Nhưng có một điều đáng chú ý từ các diễn biến trên là mức độ mất giá của VND so với các ngoại tệ khác lớn hơn nhiều so với mức độ mất giá của USD so với cùng các ngoại tệ đó. Chẳng hạn, trong khi USD mất giá 13,4% so với EUR thì VND lại suy yếu tới 16,1% so với EUR. Kể cả nếu tính thêm cả mức mất giá 0,6% của VND so với USD thì vẫn có thể thấy rõ rằng VND đã mất giá so với EUR mạnh hơn nhiều so với sự suy yếu của tỷ giá USD/EUR.
Vì sao có diễn biến lạ của các cặp tỷ giá? - Ảnh 1.
Biến động của các cặp tỷ giá trong một năm qua
Có một số lý do có thể giải thích sự suy yếu mạnh của VND so với các ngoại tệ khác ngoài USD.
Thứ nhất, cặp tỷ giá không chỉ NHNN chú trọng mà còn thu hút sự tập trung của cả xã hội là cặp tỷ giá VND/USD như là một chỉ dấu cho thấy sự ổn định của VND. Vì vậy, ngoài những cơ sở kinh tế nền tảng thông thường chi phối diễn biến tỷ giá của một đồng tiền so với một đồng tiền khác, gần như có một nhiệm vụ chính trị khác là phải giữ tương đối ổn định tỷ giá VND/USD, cho dù USD có biến động mạnh so với các ngoại tệ khác.
Bởi vậy, mặc dù trong cơ chế tỷ giá trung tâm mà NHNN công bố có sử dụng cả yếu tố biến động của rổ 8 đồng tiền tại các nước có quan hệ thương mại, đầu tư lớn với Việt Nam (so với USD) và do đó khi những đồng tiền này lên giá so với USD thì sẽ tạo áp lực VND lên giá so với USD, nhưng dường như những yếu tố này đã bị lấn át bởi nhu cầu giữ ổn định tỷ giá danh nghĩa VND/USD.
Thứ hai, thông thường khi có sự chênh lệch giữa các cặp tỷ giá tại các thị trường cởi mở khác thì nhà đầu tư/đầu cơ sẽ lập tức tiến hành các hoạt động hoán chuyển mua đi bán lại lẫn nhau giữa một vài ngoại tệ, dẫn đến thu hẹp và làm biến mất các chênh lệch này để đảm bảo tỷ giá tính chéo giữa các ngoại tệ luôn được đảm bảo (không có sự chênh lệch lớn như ở Việt Nam).
Nhưng ở Việt Nam thì tìm kiếm cơ hội lợi nhuận từ kinh doanh chênh lệch giữa các cặp tỷ giá là hoàn toàn không dễ dàng, trước hết bởi giãn cách giữa giá mua và giá bán của USD là nhỏ hơn đáng kể so với các ngoại tệ khác. Ví dụ, trong khi giãn cách tính trên chênh lệch giữa giá mua và giá bán USD tiền mặt theo công bố của Vietcombank ngày 5/2/2018 trên website của họ là 0,31% thì chênh lệch tương ứng cho đồng yen Nhật (JPY) lên tới 1,91%. Như vậy, nếu nhà đầu tư hoán chuyển vốn nắm giữ bằng USD ra VND rồi mua JPY tại thời điểm hiện tại rồi bán đi và mua lại USD trong một thời điểm tương lai thì đòi hỏi JPY phải lên giá trên 2,22% so với VND thì mới mong có lãi (tính theo USD). Mức độ chênh lệch để bảo đảm điểm hòa vốn như vậy là có lớn, quá rủi ro cho nhà đầu tư kinh doanh chênh lệch tỷ giá.
Thứ ba, quan trọng hơn và cũng liên quan đến yếu tố bên trên, khi muốn mua một ngoại tệ nào đó tại Việt Nam, nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện khắt khe về quản lý ngoại hối do NHNN ban hành để có thể được các ngân hàng thương mại bán ngoại tệ đó cho mình. Do đó, dù có thể nhìn thấy "mười mươi" cơ hội kiếm lãi từ chênh lệch tỷ giá giữa các ngoại tệ tại Việt Nam nhưng nhà đầu tư không có mấy khả năng hiện thực hóa các cơ hội này.
Từ những khía cạnh trên, việc NHNN để tỷ giá VND với các ngoại tệ khác biến động mạnh hơn so với tỷ giá VND/USD cũng sẽ không làm ảnh hưởng đáng kể đến sự ổn định tương đối của tỷ giá VND/USD.
Ngoài ra, việc để VND suy yếu mạnh so với các ngoại tệ khác ngoài USD còn có thể là một chủ ý của NHNN bởi sự suy yếu này sẽ có tác động tích cực tới cán cân thương mại của Việt Nam theo hướng thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
Tóm lại, có thể nói là việc duy trì một chế độ tỷ giá trong đó tỷ giá VND/USD được giữ tương đối ổn định, còn tỷ giá của VND với các ngoại tệ khác thì tăng lên mạnh (VND mất giá so với các ngoại tệ này) là một hành động đạt được nhiều mục đích cùng lúc. 

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).