Tuesday 27 March 2018

Tỉ giá biến động mạnh vì sao? (Bài đăn trên CafeF, 28/3/2018)

http://cafef.vn/ti-gia-bien-dong-manh-vi-sao-20180328080513968.chn

Tỉ giá VND/USD đã bật tăng mạnh từ tuần trước nối tiếp sang tuần này, hiện đã lên trên mức 22.800, gần bằng mức đỉnh đạt được một năm trước và là mức cao nhất trong lịch sử.

Diễn biến tỉ giá này là một điều khá ngạc nhiên với nhiều người, xét trong bối cảnh dự trữ ngoại hối đã tăng liên tục, đã đạt gần 60 tỷ USD (theo các thông tin gần đây) – mức cao nhất trong lịch sử dự trữ ngoại hối ở Việt Nam. Trong khi đó, cán cân thương mại vẫn đang ở mức thặng dư mấy tháng đầu năm, với mức xuất siêu hàng tỷ USD. Xét về mặt tâm lý, hai yếu tố này là đủ để nâng đỡ và giúp cho sự ổn định của tỉ giá, bởi nhà đầu tư thường có thái độ "trông giỏ bỏ thóc", và họ sẽ tự tin hơn khi thấy nguồn cung USD ở Việt Nam sẽ không gặp trở ngại gì lớn.

Tuy nhiên, nếu nhìn nhận kỹ thì sẽ thấy tỉ giá tăng đáng kể trong thời gian gần đây là một xu hướng tất yếu, bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố cơ bản quyết định chiều hướng tỉ giá.
Thứ nhất, về dự trữ ngoại hối, có thể đúng là nó đã tăng nhanh và đạt được mức cao lịch sử. Nhưng, như đã đề cập đến nhiều lần, dự trữ ngoại hối của Việt Nam ở mức cao lịch sử mới chỉ là tính trên mức độ tuyệt đối. Còn trên mức độ tương đối, dự trữ ngoại hối của Việt Nam mới chỉ ở mức "sạch nước cản", chỉ tương đương khoảng đúng 3 tháng nhập khẩu của Việt Nam, là mức tối thiểu được quốc tế khuyến nghị để đảm bảo an toàn vĩ mô.

Quan trọng hơn, xét cho cùng, dự trữ ngoại hối cũng chỉ phản ánh (và là kết quả của) chênh lệch cung cầu USD – là yếu tố quyết định diễn biến tỉ giá VND/USD. Nên sự ổn định của tỉ giá trong hai năm qua cho đến những tháng đầu năm nay có được không phải là do dự trữ ngoại hối tăng liên tục, mà thực chất là trực tiếp bởi nguồn cung USD dồi dào so với cầu USD tại Việt Nam.

Khi cung USD tăng nhanh hơn cầu USD, tỉ giá sẽ có xu hướng giảm đi (VND mạnh lên so với USD). Do điều này là không có lợi cho xuất khẩu nên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải mua vào USD để giảm áp lực tăng giá VND. Việc này đã góp phần làm tăng dự trữ ngoại hối. Nói cách khác, dự trữ ngoại hối không phải là chỉ báo hay yếu tố hỗ trợ cho sự ổn định tỉ giá – điều hay được đề cập đến khi phân tích và dự đoán xu hướng tỉ giá ở Việt Nam.

Thứ hai, xét về nguồn cung USD. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, tính chung trong quý 1/2018, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 5,8 tỷ USD, giảm tới 24,8% so với cùng kỳ 2017. Trong khi đó, tuy không có số liệu chính thức về vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong quý này, nhưng căn cứ vào hành động bán ròng của khối nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán trong hai tuần qua thì cũng có thể suy đoán rằng dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, giả sử các yếu tố khác không thay đổi, sự tụt giảm nguồn cung USD từ nhà đầu tư nước ngoài (cả gián tiếp lẫn trực tiếp) đã và sẽ tiếp tục tạo áp lực làm suy yếu VND, tức làm tăng tỉ giá VND/USD.

Nếu lập luận rằng cung USD cũng được hậu thuẫn bởi cán cân thương mại thặng dư trong quý 1 này, thì đây là điều chưa chắc chắn. Nên nhớ rằng các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa thường phải được thanh toán trước khi diễn ra hoạt động thông quan tại cơ quan hải quan, nơi đưa ra thống kê thương mại hàng tháng. Do đó, cho dù thương mại trong quý có đạt được thặng dư nhưng rất có thể dòng tiền đã chảy vào nền kinh tế từ trước đó cả một thời gian chứ không đợi đến khi hàng hóa nhập vào hoặc xuất đi một cách vật lý qua biên giới. Nói cách khác, dù có thặng dư thương mại trong tháng này, quý này, nhưng điều này không có nghĩa là Việt Nam đã thu được từng đó ngoại tệ trong cùng tháng, cùng quý.

Thứ ba, xét về cầu USD. Thống kê cho thấy trong vòng 5 tuần vừa qua, NHNN đã hút ròng lượng tiền khổng lồ, lên đến 147.800 tỷ đồng (riêng tuần qua là 20.200 tỷ đồng, so với 58.100 tỷ đồng tuần trước đó). Điều này chứng tỏ đã có sự dư thừa lớn về thanh khoản tiền đồng trong thời gian dài, gây áp lực lên không chỉ lạm phát (đã tăng lên trong 2 tháng đầu năm) mà còn tỉ giá, vì nhà đầu tư có nhiều hơn một lượng tiền đồng sẵn sàng đổi lấy cùng một lượng USD có sẵn trong nền kinh tế.

Bên cạnh đó, việc Fed tăng lãi suất tại Mỹ gần đây (và sắp tới trong năm nay) cũng làm tăng cầu USD ở nước ngoài, trong đó có Việt Nam, để đầu tư vào Mỹ và/hoặc các tài sản tài chính niêm yết bằng USD.

Tóm lại, xét tổng quát về cung cầu USD trong thời gian qua tại Việt Nam, có thể nhìn thấy rõ áp lực làm tỉ giá tăng hơn là ổn định.

Tỉ giá VND/USD trong 5 năm qua (Nguồn: xe.com)
Tỉ giá biến động mạnh vì sao? - Ảnh 1.

Friday 23 March 2018

Lỗ hổng phòng chống tham nhũng nhìn từ vụ AVG (Bài đăng trên TBKTSG, 24/3/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/270367/Lo-hong-phong-chong-tham-nhung-nhin-tu-vu-AVG.html

Vụ việc Mobifone mua 95% cổ phần của AVG với giá gần 9000 tỷ đồng từ đầu năm 2016 đã bị Thanh tra Chính phủ phát hiện có nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng và bị đề nghị chuyển cơ quan công an khởi tố điều tra.

Đọc Thông báo của Thanh tra Chính phủ về kết quả điều tra, chắc chắn nhiều người sẽ không tránh khỏi cảm giác bàng hoàng và phẫn nộ với một màn kịch “hoành tráng” được đạo diễn hết sức khéo léo, kín kẽ, nhiều lớp lang (thậm chí tính đến cả đường thoát hiểm), và hoàn toàn… đúng quy trình của một số cá nhân liên đới, đến độ thiếu chút nữa thì đúng là “bàn tay che nổi mặt trời”.

Trong vụ này có những sai phạm gì, như thế nào và của ai thì hầu như đã được làm rõ trong Thông báo của Thanh tra Chính phủ và sẽ còn tiếp tục được làm rõ hơn khi cơ quan công an bắt tay điều tra nghiêm túc. Điều quan trọng không kém là bài học về công tác phòng chống tham nhũng rút ra từ vụ việc này.

Khi chất lượng “đúng quy trình” bị bỏ quên!

Một trong những lời biện minh các cá nhân và tập thể liên đới để chạy tội phổ biến nhất trong các vụ việc có hơi hướng tham nhũng là họ đã làm đúng quy trình. Câu thần chú này không hiếm khi có hiệu nghiệm. Bởi quả thật là các quy định hiện hành của pháp luật thường chỉ tập trung vào việc quy định (chi tiết) quy trình thực hiện một cái gì đó, trong khi chất lượng việc thực hiện quy trình này của các cán bộ liên quan ra sao thì lại thường bị bỏ ngỏ, ngoài những câu chữ định tính hết sức chung chung như “thực hiện nghiêm”, “thực hiện đúng”.

Trở lại vụ việc AVG. Ví dụ về vai trò và trách nhiệm của Bộ Thông tin Truyền thông (TTTT) trong việc phê duyệt dự án mua AVG. Theo đúng quy trình, bộ này cũng thành lập Tổ thẩm định dự án với Tổ trưởng là một Vụ trưởng. Tổ thẩm định cũng so sánh các mức giá đưa ra bởi các nguồn khác nhau, trong đó có tổ chức định giá độc lập (và lấy mức giá thấp nhất). Tổ này cũng tổ chức lấy ý kiến phản biện. Dự án chỉ được lãnh đạo bộ phê duyệt sau khi Tổ trưởng thẩm định đã có tờ trình quyết định phê duyệt dự án đầu tư…

Tuy nhiên, trên thực tế, như Thông báo của Thanh tra Chính phủ đã chỉ rõ, Bộ TTTT đã cố ý làm trái nhiều vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của mình. Ví dụ Tổ thẩm định không xem xét, phân tích các thông tin, sử dụng thông tin về giá mà AVG “định bán” cho đối tác nước ngoài, không tổng hợp đầy đủ các ý kiến phản biện…

Như vậy, mặc dù là đã thực hiện đúng quy trình nhưng rõ ràng là chất lượng thực hiện quy trình này là rất có vấn đề, và đã không được kịp thời phát hiện.


Khi minh bạch bị “yểm bùa”
Câu hỏi được đặt ra ở đây là, tại sao những sai phạm, cố ý làm trái rành rành, nghiêm trọng như vậy lại không được phát hiện kịp thời bởi những cấp, những cơ quan có thẩm quyền?
Giả sử nếu công luận ngay từ đầu biết được tình trạng thực của AVG, giá trị giao dịch, cách thức thực hiện giao dịch… thì chắc chắn giao dịch mua bán này sẽ gặp ngay áp lực phản đối lớn và rốt cuộc sẽ bị hủy bỏ (tại mức giá đề xuất). Nói cách khác, nếu mọi việc đều được minh bạch, ít nhất ở một mức nào đó, ví dụ như giá trị giao dịch, thì chắc chắn sẽ không có giao dịch (với mức giá gần 9000 tỷ đồng) này.
Nhưng giao dịch vẫn diễn ra thành công. Và lý do là bởi sự minh bạch đã bị trấn yểm bằng lá bùa mang tên “Mật”!
Lá bùa này được vẽ nên bởi sự bắt tay tinh vi và rất đúng bài bản giữa những cá nhân liên đới trong Bộ TTTT và Bộ Công an. Phía Bộ TTTT thì gửi văn bản “đề nghị” Bộ Công an cho ý kiến đưa giao dịch mua AVG này vào danh mục Mật. Được tham vấn thì trả lời, Bộ Công an đã “thống nhất” với yêu cầu này của Bộ TTTT. 
Được khoác danh “Mật” với thời hạn không xác định do Bộ Công an xác nhận thì dự án đầu tư này đương nhiên thoát được khỏi nghĩa vụ minh bạch hóa, dù Mobifone là doanh nghiệp nhà nước, dù Bộ TTTT là cơ quan đại diện chủ sở hữu và đồng thời là cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông nên phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành về công bố thông tin.
Bài học
Như vậy, cái thiếu vắng hiện nay trong phòng chống tham nhũng không phải là sự thiếu vắng, không hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật hiện hành. Bởi vậy, nỗ lực phòng chống tham nhũng không nên, không chỉ tập trung vào “tiếp tục hoàn thiện” khuôn khổ pháp luật, tiếp tục đề ra và hoàn thiện các quy trình đầu tư, xét duyệt... như là một giải pháp hữu hiệu.
Thay vào đó, sự minh bạch hóa của doanh nghiệp nhà nước, của các cơ quan quản lý  là điểm rất yếu, yếu nhất trong công tác phòng chống tham nhũng hiện nay. Dù đã được chế tài khá đầy đủ bằng hàng loạt quy định pháp luật liên quan nhưng các đối tượng có nghĩa vụ minh bạch thông tin vẫn “nhởn nhơ” không công bố hoặc công bố không đầy đủ thông tin theo yêu cầu. Quan trọng hơn, sự vi phạm pháp luật trắng trợn này diễn ra đều đều, thường xuyên, nhưng hầu như chưa bao giờ bị xử lý (nghiêm túc, có tính răn đe mạnh), bất chấp những lời từ kiến nghị đến “quyết liệt” cảnh báo, răn đe, kể cả từ cấp cao trong Chính phủ.
Nguy hại hơn, vụ việc AVG có lẽ là lần đầu tiên còn cho thấy đã có sự bắt tay và lũng đoạn có hệ thống không chỉ trong nội bộ của một cơ quan, doanh nghiệp, mà còn ở cấp độ “liên bộ” hoặc cao hơn, dễ dàng vô hiệu hóa hiệu lực của hệ thống phòng chống tham nhũng. Nếu không có sự kiên quyết chỉ đạo của Ban Bí thư, có lẽ rồi vụ việc sẽ chìm vào im lặng bởi những lá bùa trấn yểm quá độc và những thế lực đằng sau đó quá lớn.
Bởi vậy, song song với thực hiện nghiêm minh việc minh bạch hóa thông tin, cơ quan phòng chống tham nhũng cần có người đứng đầu liêm chính, có bàn tay sắt và tinh thần chống tham nhũng tới cùng.

Wednesday 14 March 2018

Bảo hộ - cần tỉnh táo, rạch ròi (Bài đăng trên TBKTSG, 14/3/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/269748/Bao-ho---can-tinh-tao-rach-roi.html


Tự do hóa thương mại là có lợi cho nền kinh tế toàn cầu nói chung và các quốc gia nói riêng. Điều này không chỉ được chứng minh trên lý thuyết mà còn đúng trên thực tế khi các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương liên tục được hình thành và phát triển.

Trong dòng chảy toàn cầu như vậy, chủ nghĩa bảo hộ nhân danh quyền lợi quốc gia chưa bao giờ chết hay mất đi sức mạnh và tầm ảnh hưởng. Sự “trường tồn” của chủ nghĩa bảo hộ được nuôi dưỡng có thể bởi động cơ chính trị của các chính trị gia khi vận động tranh cử hoặc khi đang tại quyền muốn lợi dụng bảo hộ để thu phục sự ủng hộ của những nhóm lợi ích bị thiệt hại bởi tự do hóa thương mại. Bên cạnh đó, chủ nghĩa bảo hộ cũng có thể được nuôi dưỡng bởi sự vận động hành lang của các nhóm lợi ích như một công cụ bảo vệ đặc quyền của họ.

Trong một số trường hợp, bảo hộ thực sự có ý nghĩa và cần thiết khi nó được dùng như một công cụ trong một gói chính sách để trợ giúp phát triển các ngành công nghiệp địa phương non trẻ nhưng có tiềm năng. Đặc biệt, bảo hộ cũng là cần thiết và xác đáng khi các nhà sản xuất nội địa bị cạnh tranh một cách không công bằng với các nhà sản xuất nước ngoài do các nhà sản xuất nước ngoài được, ví dụ, trợ giá bởi chính phủ của họ, hoặc họ bán phá giá để giành thị phần tại nước ngoài. Đây là trường hợp điển hình khiến Mỹ gần đây đã xem xét đánh thuế cao hơn đối với một số mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ như máy giặt, pin mặt trời, thép và nhôm... - là hành động mà trong con mắt của nhiều người, đã làm trỗi dậy chủ nghĩa bảo hộ, vốn có khả năng châm ngòi cho chiến tranh thương mại với các đối tác của mình.

Ở Việt Nam, chính sách bảo hộ đã in đậm dấu ấn trong một số ngành mà điển hình là ô tô và mía đường. Danh sách ngành được bảo hộ thỉnh thoảng còn được bổ sung thêm những ngành mà các doanh nghiệp của ngành (nhiều khi là các doanh nghiệp nhà nước) làm ăn thua lỗ, bị cạnh tranh khốc liệt bởi hàng nhập khẩu, như phân bón, polyester lớn tiếng “kể khổ” để rồi được Chính phủ ra tay cứu vớt bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan.

Điểm chung của các ngành được bảo hộ ở Việt Nam là chúng không phải là những ngành công nghiệp non trẻ nữa, và cũng không phải là công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp xanh, có tính sáng tạo, có tiềm năng thành công và cần khuyến khích phát triển bằng mọi giá. Và khác với Mỹ, sản phẩm của nhiều trong số những ngành này ở Việt Nam không cạnh tranh được với sản phẩm nhập khẩu đơn giản vì các doanh nghiệp sản xuất bằng những công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ, chi phí cao, phụ thuộc nặng nề vào nguyên phụ liệu và bán thành phẩm nhập khẩu.
Trong nhiều trường hợp, các dự án sản xuất được “vẽ” ra và thực thi một cách duy ý chí và/hoặc để có điều kiện tham nhũng, từ khâu thiết kế, xây dựng đến vận hành và tiêu thụ sản phẩm mà bất chấp hiệu quả của dự án, với tâm lý lỗ đâu thì “kêu” Nhà nước đến đó.

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trong các ngành được bảo hộ được cho ra đời hoặc bắt tay vào sản xuất sản phẩm nhiều khi chỉ đơn giản bởi chạy theo lối tư duy kinh tế thời bao cấp rằng cái gì phải nhập khẩu (nhiều) thì hãy sản xuất ở trong nước mà bất chấp các tính toán thiệt hơn về lợi thế so sánh với các nước xuất khẩu.

Các phong trào như phát triển xi măng lò đứng và chương trình mía đường quốc gia theo các đề án quy hoạch mang nặng dấu ấn kinh tế kế hoạch hóa cũng là những tác nhân chủ yếu dẫn đến hậu quả các địa phương đua nhau xây nhà máy xi măng, trồng mía và chế biến đường, để rồi sản phẩm làm ra chất đống trong kho do chất lượng kém, giá thành cao, bán trong nước không được, xuất đi cũng không xong, tạo liên tưởng đến chương trình “Đại nhảy vọt” của Trung Quốc năm nào. Từ đây lại xảy ra tâm lý “đâm lao phải theo lao”, Chính phủ buộc phải “tháo gỡ khó khăn” bằng các biện pháp bảo hộ và trợ cấp cho các doanh nghiệp.

Để biện minh và làm tăng thêm sức nặng cho lời kêu gọi bảo hộ từ Nhà nước, các doanh nghiệp và hiệp hội thường nhấn mạnh đến hậu quả hàng ngàn công nhân trong ngành mất việc, hàng triệu nông dân sản xuất, nuôi trồng nguyên liệu sẽ bị ảnh hưởng nặng nề khi các nhà máy đóng cửa. Đương nhiên là khi vận động như vậy, lợi ích tổng thể của một nền kinh tế với gần 100 triệu người tiêu dùng không bao giờ được đề cập đến.

Trong bối cảnh này, Chính phủ cần tỉnh táo, rạch ròi trước khi đưa ra những chính sách bảo hộ (mới). Chính sách bảo hộ cần phải tránh là hậu quả của sự vận động hành lang của nhóm lợi ích liên quan hay bản thân người làm chính sách chỉ để bảo vệ đặc lợi của họ mà không công tâm xét đến tính cần thiết của bảo hộ. Lắng nghe công luận thì sẽ biết được chính sách bảo hộ phục vụ ai và có xứng đáng không.

Và cũng như trên đã nói, nếu lỗi của sự cạnh tranh yếu không nằm ở phía nước ngoài, mà là hậu quả có yếu tố nội tại như sự phát triển tràn lan theo quy hoạch bất hợp lý, công nghệ và thiết bị lạc hậu, quy mô nhỏ, tham nhũng nặng nề, trong khi bản thân chúng không phải là những ngành, những sản phẩm non trẻ, có tiềm năng, cần khuyến khích và hỗ trợ của Chính phủ... thì Chính phủ cần (dũng cảm) bỏ tư duy “đâm lao phải theo lao”, nói không với bảo hộ, kể cả những ngành có sự hiện diện của các doanh nghiệp nhà nước.

Tất nhiên là nếu không bảo hộ thì sẽ có ngay hàng ngàn người có quyền lợi liên đới bị ảnh hưởng. Nhưng kể cả khi phải trợ cấp, giải quyết gánh nặng kinh tế như mất việc, chuyển đổi sản xuất, kinh doanh, trồng trọt, chăn nuôi... thì chi phí mà Nhà nước phải bỏ ra có thể sẽ chỉ bằng một phần phí tổn mà Nhà nước nói riêng và cả nền kinh tế phải gánh chịu khi phải “cưu mang” những doanh nghiệp và những ngành sản xuất không hiệu quả, không ít trong số chúng là các “xác sống”.

CPTPP và triển vọng Mỹ quay lại (Bài đăng trên TBKTSG, 13/3/2018)


http://www.thesaigontimes.vn/270011/CPTPP-va-trien-vong-My-quay-lai.html

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) tưởng như đã chết sau khi Tổng thống Mỹ Trump tuyên bố rút Mỹ ra khỏi hiệp định này hồi đầu năm ngoái. Nhưng rồi 11 nước thành viên còn lại đã nỗ lực cùng nhau vượt qua những trở ngại và bất đồng để cùng đạt được một thỏa thuận thương mại tự do mới, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), mà không có sự hiện diện của Mỹ.
Vẫn cần Mỹ

Với những nước đang phát triển trong TPP như Malaysia, Việt Nam, Peru và Chile, điểm hấp dẫn chính của việc tham gia vào TPP là cánh cửa xuất khẩu rộng mở hơn sang thị trường Mỹ. Nên sự vắng mặt của Mỹ trong CPTPP đã làm mất đi cơ hội này.

Ngược lại, các nước này cũng thường không thấy “thoải mái” lắm với các khía cạnh khác của TPP, nhất là những điều khoản liên quan đến mua sắm Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước và quyền sở hữu trí tuệ, bởi chúng can thiệp vào và hạn chế chủ quyền của họ. Nhưng họ sẵn sàng chấp nhận những thiệt hại này để đổi lấy sự tiếp cận tự do vào thị trường Mỹ.

Nay, sự vắng mặt của Mỹ làm cho cán cân lợi ích-tổn hại thay đổi. Lợi ích tiềm năng đã bị giảm đáng kể trong khi tổn hại vẫn còn nguyên đó. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong văn bản CPTPP, có 22 điều khoản chỉ bị đình chỉ (trong số trên 1.000 điều khoản), chứ không phải là bị bãi bỏ. Điều này là bởi niềm hy vọng của 11 thành viên rằng Mỹ sẽ quay trở lại tham gia vào CPTPP một ngày nào đó trong tương lai.

Sự bất trắc của Mỹ

Niềm hy vọng trên dường như sẽ trở thành hiện thực khi ông Trump gần đây tuyên bố ý định quay trở lại tha gia TPP nếu Mỹ đạt được thỏa thuận thương mại “tốt hơn” cho Mỹ. Có thể ông sẽ nhận ra rằng không những TPP không chết như nhiều người từng dự báo khi Mỹ rũ bỏ TPP mà, ngược lại, nó đã hồi sinh (thành CPTPP) và các ngành xuất khẩu của Mỹ sẽ bị ảnh hưởng mạnh trên thị trường châu Á-Thái Bình Dương.

Ông Trump cũng có thể đã nhận ra rằng các thành viên hiện tại của CPTPP không mong muốn đến mức tuyệt vọng sự quay trở lại của Mỹ bởi gần đây có dấu hiệu cho thấy năm nước khác trong khu vực là Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, Indonesia, và Thái Lan cũng muốn tham gia CPTPP.

Tương tự, dù Mỹ có hứa hẹn thay thế TPP bằng hàng loạt các hiệp định thương mại tự do song phương giữa Mỹ và các nước khác trong khu vực, nhưng thực tế hiện nay cho thấy hầu như chẳng có nước nào muốn “xếp hàng” để thương lượng song phương với Mỹ (vì thương lượng lại theo chủ trương của Mỹ thực chất là để giảm thâm hụt trong thương mại song phương của Mỹ với các thành viên khác).

Ngược lại, ông Trump gần đây đã và đang từng bước hiện thực hóa chủ nghĩa bảo hộ thương mại của mình. Nên thật khó tưởng tượng được Mỹ sẽ quay trở lại TPP khi không có những thay đổi “tốt hơn” cho quyền lợi của Mỹ thông qua các cuộc thương lượng lại.

Ngoài ra, sự bất trắc về chính sách thương mại của Mỹ thể hiện qua sự hay thay đổi đột ngột lập trường về thương mại cũng như sự mập mờ, khó hiểu về ý định, ý muốn và phát ngôn của ông Trump càng làm cho người ta khó tin tưởng việc Mỹ sẽ tiếp tục theo đuổi mối quan tâm mới này – thương lượng lại với các nước thành viên CPTPP.

Việc thương lượng lại khó khả thi

Theo đại diện của Nhật Bản, nước đã thế chân Mỹ tiếp tục sứ mệnh cổ súy thương mại tự do trong khu vực dẫn đến sự thành công của CPTPP, nếu Mỹ quay trở lại tham gia hiệp định, điều này không có nghĩa là 11 thành viên của hiệp định phải thương lượng lại với Mỹ. Bởi TPP là hiệp định trước đó đã được ký kết bởi 12 thành viên, trong đó có Mỹ.
Ngoài ra, bất cứ sự thay đổi nhỏ nào cũng làm ảnh hưởng trầm trọng đến việc thương lượng. 11 nước thành viên TPP đã phải rất nỗ lực cả một năm qua để sửa đổi lại hiệp định. Nên hiện nay, các nước này dường như không còn tâm trạng hay mong muốn thương lượng lại với Mỹ, đặc biệt khi phải phục hồi lại những điều khoản bị đình chỉ, đặc biệt là điều khoản về sở hữu trí tuệ.
Trên hết, sự ký kết thành công CPTPP cho thấy, trái với suy nghĩ chung của nhiều người trước đó, TPP đã không chết kể cả không có sự tham gia của Mỹ. Nói cách khác, sự tham gia của Mỹ không phải là không thể thiếu được cho bất cứ thỏa thuận thương mại tự do nào ở mức độ cao trong khu vực hoặc trên thế giới.
Trong khi các nước thành viên CPTPP đúng là có phấn khởi hơn trước những dấu hiệu về ý định quay trở lại tham gia TPP của Mỹ, những dấu hiệu này, như đã nói, bất trắc, không thuyết phục và đáng tin cậy. Quan trọng không kém, nếu năm nước khác trong khu vực như nêu ở trên, và thậm chí cả những nước ngoài khu vực như Anh, tham gia CPTPP và nâng tổng số thành viên lên 16+ thì quy mô kinh tế và tác động tích cực mang lại của CPTPP-16+ còn lớn hơn cả TPP-12, càng  làm lu mờ vai trò của Mỹ.
Như vậy, có thể thấy sự thương lượng lại với Mỹ sẽ không dễ dàng và cũng không được nhanh chóng khởi động. Do đó, sự tham gia của Mỹ như một thành viên mới của CPTPP sẽ khó trở thành hiện thực, ít nhất là trong tương lai gần. Các nước thành viên CPTPP không đợi chờ Mỹ; họ đã đạt được thỏa thuận cho một hiệp định mà rất khó khăn mới đạt được và sẽ tiếp tục tiến trình phê chuẩn tại các nước thành viên.

Tuesday 6 March 2018

Một chính phủ rạch ròi, minh bạch (Bài đăng trên TBKTSG, 6/3/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/269486/Mot-chinh-phu-rach-roi-minh-bach.html


Chính phủ Singapore mới đây đã công bố dự toán ngân sách cho năm tài khóa 2018 với một loạt điểm mới, “tốt” nhiều hơn “xấu”.

Về điểm “xấu”, nổi bật nhất là kế hoạch tăng thuế tiêu dùng dịch vụ và hàng hóa (GST) từ 7% lên 9% vào “một thời điểm nào đó trong khoảng thời gian” 2021 đến 2025. Chính phủ Singapore ước tính tăng GST sẽ giúp tăng thu thêm cho ngân sách khoảng 0,7% GDP hàng năm, và tiền thu được dùng để lấp khoảng cách thu chi trong tương lai.

Điểm khác biệt với Việt Nam là Singapore không tìm cách làm an lòng dân chúng về tác động tiêu cực của việc tăng GST bằng những câu nói khơi khơi kiểu như tăng thuế “tác động không đáng kể” đến đời sống dân cư (câu này được vận dụng cho hầu như bất cứ sự tăng lên về thuế, phí nào đó ở Việt Nam).

Thay vào đó, Singapore đưa ra những giải pháp thích hợp để giảm nhẹ tác động của tăng thuế lên bộ phận dân cư dễ tổn thương nhất. Những giải pháp này gồm Chính phủ chi trả thay GST cho dịch vụ giáo dục và y tế công cộng (được trợ giá), tăng mức tài trợ cho Quỹ Phiếu bù đắp GST (tính trung bình, Phiếu bù đắp GST giúp các gia đình có thu nhập thấp và người có tuổi giảm được khoảng một nửa số thuế GST họ đã phải trả hàng năm), thực thi gói bù trừ giúp cho công dân Singapore điều chỉnh được với sự tăng lên về GST này.

Một điểm “xấu” khác là Chính phủ tăng mức phí nộp bởi người chủ thuê giúp việc người nước ngoài từ 265 SGD lên 300 SGD cho người giúp việc thứ nhất và 450 SGD cho người thứ hai. Nhưng Chính phủ chỉ áp dụng mức phí 60 SGD cho gia đình nào có người già, trẻ con hoặc người tàn tật muốn thuê người giúp việc. Đổi lại, gia đình có người có tuổi muốn được mức ưu đãi này thì phải thỏa mãn điều kiện cao hơn là người có tuổi đó phải trên 67 tuổi, thay vì 65 tuổi như trước đây. Qua đây có thể thấy rõ chủ đích của Chính phủ Singapore là những gia đình có hoàn cảnh thì sẽ được giúp đỡ, còn thì Chính phủ không khuyến khích sự ỷ lại, lười biếng.

Trong danh sách những điểm “xấu” còn có thêm việc đánh thuế khí thải ở mức 5 SGD/tấn khí thải nhà kính cho những cơ sở xả thải trên 25.000 tấn/năm trong giai đoạn từ 2019 đến 2023 (mức này sẽ được xét lại vào năm 2023, có thể tăng lên đến 10 hoặc 15 SGD/tấn vào năm 2030). Ngược lại, Chính phủ cũng củng cố Quỹ Sử dụng hiệu quả năng lượng để giúp các công ty cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, cắt giảm khí thải. Đồng thời, nhằm giảm bớt tác động của việc tăng thuế khí thải lên giá điện và gas (ước tính bình quân chi phí điện gas mỗi hộ gia đình sẽ tăng thêm 1%), Chính phủ tăng mức trợ cấp điện gas cho các hộ dân sống trong HDB thêm 20 SGD/năm từ 2019 đến 2021.

Chính phủ cũng tăng thuế lên người mua nhà (nhưng chỉ áp dụng với nhà trị giá trên 1 triệu SGD) và đồng thời tăng thuế thuốc lá thêm 10% nữa. Nhưng chắc chắn đây là những loại thuế được cổ vũ bởi đa phần người dân sở tại.

Ở chiều hướng ngược lại, về những điểm “tốt”, một điểm nhấn trong dự toán ngân sách của Singapore năm nay là “SG Bonus”, theo đó một phần trong số 9,6 tỷ SGD (khoảng 165 ngàn tỷ đồng) thặng dư ngân sách dự kiến cho năm 2017 sẽ được “chia” cho công dân Singapore từ 21 tuổi trở lên trong năm 2018 (mỗi người sẽ nhận được từ 100 SGD đến 300 SGD, tùy theo thu nhập của họ). Dự kiến việc này sẽ làm Chính phủ Singapore tiêu tốn 700 triệu SGD. Theo đại diện của Chính phủ, đây là một trong những cam kết hành động của Chính phủ nhằm giúp người dân chuẩn bị tốt hơn cho tương lai của mình, chăm sóc những đối tượng cần chăm sóc và làm phổ biến tinh thần cho đi.

Danh sách những điểm “tốt” còn kéo dài với những hành động cụ thể như tăng phần đóng góp của Chính phủ vào Quỹ tiết kiệm cho giáo dục (Edusave) để mỗi học sinh tiểu học nhận được 230 SGD (từ mức 200 SGD) và 290 SGD cho mỗi học sinh trung học (từ mức 240 SGD). Học bổng cho học sinh gia đình có thu nhập thấp cũng được nâng lên mức 900 SGD từ mức 750 SGD. Thêm vào đó, Chương trình bữa ăn học đường cũng cung cấp nhiều bữa ăn hơn học sinh trung học.

Về nơi ăn chốn ở, Chính phủ Singapore cũng tăng cường cải thiện điều kiện nhà ở cho dân chúng năm nay. Ví dụ, chương trình Trợ cấp nhà cửa để gia đình nào đó muốn mua căn hộ Chính phủ xây (HDB – đa phần người dân Singapore sống trong những căn hộ kiểu này) trên thị trường thứ cấp với mục đích để sống chung với bố mẹ hoặc con cái mình thì sẽ nhận được khoản trợ cấp một lần tăng lên tới 30.000 SGD. Chương trình này cũng được áp dụng với các hộ độc thân, mỗi người/hộ được hưởng 15.000 SGD – mà theo Chính phủ thì đây là đối tượng chủ yếu chăm sóc những thành viên còn lại trong gia đình. Chu đáo hơn, nếu cá nhân nào đó mua căn hộ HDB gần nơi bố mẹ mình sống thì sẽ được Chính phủ trợ cấp 10.000 SGD. “Gần” được định nghĩa cụ thể là trong phạm vi 4km.

Về chăm sóc sức khỏe và phát triển cộng đồng, các loại quỹ chăm sóc sức khỏe và phát triển cộng đồng sẽ được tổ chức lại hiệu quả hơn, nhận được thêm nhiều kinh phí cấp phát từ Chính phủ hoặc được ưu đãi về thuế.

Về phát triển kinh tế, Chính phủ tiếp tục gia hạn các chương trình như Đồng trả lương (Chính phủ cùng chi trả với doanh nghiệp để tăng lương cho nhân viên), dự tính sẽ tiêu tốn của Chính phủ thêm 1,8 tỷ SGD. Rồi Chương trình hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ tăng mức hoàn thuế lên tới 40% cho năm 2018 và kéo dài thêm sang năm 2019, dự kiến cũng lấy đi thêm 475 triệu SGD từ ngân sách. Ngoài ra còn hàng loạt các quỹ và chương trình tăng cường trợ giúp cụ thể cho các doanh nghiệp, nhất là các start-up, và người lao động nhằm tạo ra các chuyển biến mới cho nền kinh tế.

Về định hướng ngân sách trong tương lai, Chính phủ Singapore tuyên bố rõ mặc dù hiện tại ngân sách đang ở vị thế vững chắc nhưng nếu họ không có các giải pháp thực hiện ngay từ bây giờ thì ngân sách sẽ bị thâm hụt vào thập kỷ tới. Bởi vậy, Chính phủ sẽ phải nỗ lực quản lý thận trọng mức tăng trưởng chi tiêu và tối đa hóa lợi ích thu được từ mỗi đô la chi ra.

Giải pháp cụ thể cắt giảm chi tiêu là giảm tốc độ tăng chi ngân sách của các bộ từ 40% GDP còn 30% GDP từ năm 2019.
Tóm lại, có thể thấy qua dự toán ngân sách của Singapore một Chính phủ có tầm nhìn dài hạn, hết sức minh bạch, công tâm và có trách nhiệm với từng đồng tiền thuế của dân, thực sự vì dân và luôn quan tâm đến phúc lợi toàn diện của dân bằng những hành động cụ thể và thiết thực, đồng thời cũng rất thân thiện với môi trường, với doanh nghiệp. Một điểm nữa cần được nhìn nhận và học hỏi từ Chính phủ Singapore là song song với những hành động tăng thuế phí luôn là những giải pháp rạch ròi, xác đáng nhằm giảm nhẹ tác động tiêu cực lên những đối tượng cần được bảo vệ và khuyến khích phát triển vì lợi ích chung.

Sunday 4 March 2018

Luẩn quẩn hồi sinh các dự án “đắp chiếu” (Bài đăng trên TBKTSG, 4/3/2018)

http://www.thesaigontimes.vn/269481/Luan-quan-hoi-sinh-cac-du-an-dap-chieu.html

Nhà máy Đạm Ninh Bình, một trong 12 dự án ngàn tỉ thua lỗ, “đắp chiếu” của Bộ Công Thương mới đây đã được hồi sinh và đi vào hoạt động theo phương án xử lý các dự án thua lỗ mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tháng 10-2017.

Tuy nhiên, căn cứ vào những thông tin sơ bộ mà ban giám đốc nhà máy cũng như lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết thì có thể thấy sự hồi sinh và hoạt động của nhà máy cũng chỉ tương tự như việc duy trì sự sống của một bệnh nhân bằng các ống truyền dẫn oxy và dinh dưỡng mà nếu rút ra thì bệnh nhân sẽ không thể tự thở, tự sống được.

Cụ thể, giá bán đạm urê của nhà máy hiện là 6-6,3 triệu đồng/tấn, chỉ cao hơn chi phí biến đổi, là những khoản chi phí thay đổi theo quy mô sản xuất hoặc doanh số, khoảng 0,5 triệu đồng/tấn (tức là chỉ cao hơn khoảng 9% chi phí biến đổi)(1). Lưu ý thêm rằng để hòa vốn thì ngoài chi phí biến đổi, còn cần phải tính thêm vào đó chi phí cố định phân bổ trên một đơn vị sản phẩm bán ra, gồm các loại chi phí như tiền thuê đất, thuế tài sản, bảo hiểm, trả lãi và gốc vay (ví dụ như các khoản đầu tư ban đầu), khấu hao tài sản cố định, tiền lương nhân viên và cán bộ quản lý, chi phí quảng cáo, đào tạo... Nếu cộng đủ tất cả các loại phí cố định này (dù có cắt giảm những hạng mục như quảng cáo, đào tạo) thì chắc là nhà máy hoạt động khó có hiệu quả, dù ở đây chúng ta không thể tính toán bài toán lỗ lãi một cách chi tiết vì không có số liệu.

Đó là chưa kể là nhà máy lại phải tiếp tục phụ thuộc hoàn toàn vào tiền vay khách hàng và ngân hàng để có nguồn vốn lưu động mua vật tư và chi trả các khoản “đặng chẳng đừng” như đại tu một số bộ phận dây chuyền, máy móc (mới hoạt động sao đã đại tu?). Theo ban giám đốc, nhà máy cần vay 350 tỉ đồng để duy trì sản xuất. Nếu giả sử có ngân hàng nào đó, dưới áp lực của các cơ quan chức năng, chấp nhận mạo hiểm cho nhà máy vay số tiền này thì tiền trả lãi vay sẽ càng làm tăng gánh nặng tài chính.


Trong bối cảnh triển vọng mờ mịt của nhà máy, Bộ Công Thương vẫn hạ quyết tâm không để nhà máy ngừng hoạt động(2). Lý do được đưa ra chủ yếu là những yếu tố phi thị trường như sợ làm tổn thương truyền thống tự hào của cán bộ, công nhân viên, của ngành công thương, của người dân, của lãnh đạo tỉnh Ninh Bình...
Tuy nhiên, giải pháp (nhiệm vụ) mà Bộ Công Thương chỉ ra cho nhà máy thực hiện chủ yếu chỉ là giải pháp khắc phục các tồn tại về mặt kỹ thuật như phải làm chủ công nghệ, vận hành an toàn, tránh để xảy ra sự cố như sự cố đóng máy kỹ thuật trước Tết (tức là cho đến thời điểm này vẫn chưa làm chủ được công nghệ và vận hành thông suốt?), hướng tới nâng phụ tải công suất lên trên 80%...
Việc tập trung vào giải pháp kỹ thuật, nâng sản lượng tuy sẽ giúp hạ giá thành sản xuất (chủ yếu do hạ chi phí cố định tính trên một đơn vị sản phẩm) nhưng chắc chắn vẫn không thể giúp nhà máy thoát được tình trạng khó khăn, bởi chỉ riêng phí biến đổi đã chiếm trên 90% giá bán, và ngay cả Bộ Công Thương cũng phải chỉ ra rằng giá thành khi vận hành từ than đến đạm chỉ lãi khoảng 400.000-500.000 đồng/tấn urê, chưa trừ các chi phí như lãi suất ngân hàng, nhân công... tức là một con số quá nhỏ, quá mong manh, tương tự như khi so sánh giữa giá bán với chi phí cố định và biến đổi phân tích ở trên.
Ngoài ra, cũng phải lưu ý rằng để làm chủ công nghệ, hoạt động trơn tru thì nhà máy vẫn phải tiêu tốn thêm nhiều tiền để đại tu, thay máy móc mới, thiết bị và đào tạo nhân công... như một phần trong gói vay vốn 350 tỉ đồng mà nhà máy đang đề nghị Bộ Công Thương “có ý kiến hỗ trợ” nêu trên. Như vậy, phương án xử lý, phục hồi nhà máy này vẫn vấp phải vòng luẩn quẩn chi phí và hiệu quả sản xuất.
Để phá vỡ vòng luẩn quẩn này thì cần thiết Chính phủ phải tiếp tục rót vốn (lưu động) hoặc bảo lãnh vay vốn cho nhà máy với hy vọng mong manh rằng nhà máy sau đó sẽ tự đứng vững và duy trì sản xuất được (chưa tính đến chuyện có lãi và trả được nợ vay lãi và gốc). Nhưng mặt khác, Chính phủ đã có chủ trương không dùng ngân sách để xử lý các dự án thua lỗ này, cũng như Bộ Công Thương đã nhấn mạnh rằng nhà máy “phải tự cứu mình”. Như vậy, quả bóng nay lại nằm trong chân của ban giám đốc Nhà máy Đạm Ninh Bình, ít nhất là trên danh nghĩa, trong khi giải pháp khả thi duy nhất mà ban giám đốc này có thể nghĩ ra và đề xuất là phải có tiền (tiếp tục được vay vốn).
Sự “bùng nhùng” nói trên một lần nữa cho thấy việc xử lý các dự án thua lỗ, “đắp chiếu” không nên, không chỉ dừng lại ở việc dùng nỗ lực với “quyết tâm chính trị” để làm vực dậy những “xác sống” vốn đã sai (và trở nên tệ hại hơn bởi nạn tham nhũng) ngay từ khâu thiết kế đến xây dựng và vận hành, không thể tồn tại một cách bình thường và lành mạnh trong môi trường cạnh tranh của kinh tế thị trường. Để tránh khả năng những “xác sống” này tiếp tục hút cạn nguồn lực của nhà nước thì phải dũng cảm xóa bỏ chúng nếu cần thiết.
(1) https://laodong.vn/kinh-te/de-nghi-vay-them-350-ty-dong-de-cuu-nha-may-dam-ninh-binh-592313.ldo
(2) https://laodong.vn/kinh-te/bo-truong-cong-thuong-nha-may-dam-ninh-binh-hay-tu-cuu-minh-592335.ldo

Saturday 3 March 2018

Một số kinh nghiệm cá nhân về chuyện đăng bài báo khoa học (Bài đăng trên TBKTSG, 3/3/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/td/269596/Mot-so-kinh-nghiem-ca-nhan-ve-chuyen-dang-bai-bao-khoa-hoc.html


Không phải cho hiện nay mà đã từ lâu dư luận nhiều phen dậy sóng về chuyện làm khoa học và xuất bản các bài báo, công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí khoa học nước ngoài của một số cá nhân ở Việt Nam. Ngoài những vấn đề như đạo văn, còn nổi lên vấn đề xuất bản trên các tạp chí “ngụy” khoa học – không có trong những cơ sở dữ liệu về các tạp chí khoa học có uy tín (ví dụ Scopus) hoặc có nhưng sau đó đã bị loại bỏ vì bị phát hiện là tạp chí “ngụy” khoa học.
Từ kinh nghiệm bản thân là một người đã có một số bài nghiên cứu được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế nghiêm túc trong thời gian vài năm làm nghiên cứu sinh Tiến sỹ và giảng dạy chính thức tại một trường đại học bên Nhật, cũng như một người đã và đang được mời làm thành viên ban biên tập hoặc người đọc phản biện kín cho một số tạp chí khoa học trong và ngoài nước, tôi muốn góp đôi lời xung quanh chuyện đăng bài trên tạp chí khoa học.

Trước tiên, như đã nói, là một người đã từng xuất bản các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học nghiêm túc nên tôi rất thấu hiểu những khó khăn để bài nghiên cứu của mình cũng như  của các tác giả khác được đăng trên các tạp chí khoa học, nhất là những người đang làm công tác nghiên cứu, giảng dậy ở Việt Nam, không ít trong số đó gặp trở ngại lớn do trình độ tiếng Anh có hạn. Bởi vậy, mỗi khi đọc được một thông tin liên quan đến  một nhà nghiên cứu khoa học nào đó trong nước đã xuất bản được một bài trên tạp chí khoa học quốc tế nào đó (nhất là trong lĩnh vực kinh tế như của tôi), tôi thường cố gắng tìm đọc với thái độ trân trọng xen lẫn khâm phục.
Cách đây chừng một năm, nhân một dịp đang phải tìm thông tin liên quan đến ngành sữa của Việt Nam để phục vụ cho công việc chuyên môn tại nơi làm việc ở Singapore, tôi tìm được link dẫn đến lý lịch khoa học của một vị Tiến sỹ hiện đang là Phó Giáo sư, Phó trưởng Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế tại một trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết đã xuất bản một vài bài nghiên cứu trên tạp chí khoa học nước ngoài, và anh còn là giáo sư thỉnh giảng của các đại học tại Mỹ, Nhật. Rất ấn tượng với những thành tích này, tôi lần tìm đọc các bài nghiên cứu của anh trên các tạp chí nước ngoài, gồm tạp chí “International Journal of Managing Value and Supply Chains”, “Journal of Globalization Studies”, “Journal of Sustainability Science and Management”, và “Economic Annals”.

Các tạp chí trên, căn cứ vào thông tin có trên trang chủ, cái thì có trụ sở tại Nga, cái ở Ukraina, cái ở Malaysia và có cái thì như là “công dân toàn cầu” vì không thấy có thông tin liên quan. Cũng có cái được giới thiệu là có trong các cơ sở dữ liệu như Scopus, nhưng cũng có cái chẳng thấy có bất kỳ thông tin liên quan nào. Hầu hết tất cả các tạp chí này đều được giới thiệu là tạp chí có phản biện, người đọc tiếp cận và đọc bài miễn phí. Có tạp chí thì nêu rõ tác giả có bài đăng thì phải nộp 120 USD lệ phí xuất bản, mặc dù không cần phải tốn tiền để nộp bài.
Ngoài nội dung rất đáng bị phê phán vì hầu như không có những phát hiện và đóng góp mới, có giá trị về học thuật, với lối hành văn như của một phóng viên đưa tin thời sự hàng ngày, điều quan trọng mà một người đọc có trình độ tiếng Anh kha khá và từng “viết lách”, có thể phát hiện ra ngay từ những bài nghiên cứu của tác giả này là tiếng Anh cũng như cách trình bày vấn đề của anh có rất nhiều “sạn”. Tôi thậm chí có thể đoán được đoạn nào anh trích dẫn, “mượn” của người khác, đoạn nào là của anh, căn cứ vào sự khác biệt về chất lượng tiếng Anh và văn phong của những đoạn này.

Có nhiều người sẽ cho rằng ngôn ngữ không phải là chuyện quan trọng, miễn là chuyển tải được ý muốn của người viết. Nhưng, ít nhất với tôi, chuyện ngôn ngữ có nhiều “sạn” thể hiện trên một tạp chí lại nói lên tất cả về chất lượng và sự nghiêm túc cũng như giá trị của tạp chí đó.
Một vấn đề liên quan khác mà nhiều người ở Việt Nam hay viện dẫn như là một trở ngại để xuất bản được các nghiên cứu của mình trên tạp chí quốc tế là vấn đề chi phí. Quả thật, như nêu ở trên, có nhiều tạp chí yêu cầu người nộp bài phải trả phí nộp bài và/hoặc phí xuất bản. Nhưng cần lưu ý rằng có rất nhiều tạp chí nghiêm túc, có tiếng tăm không yêu cầu người viết phải nộp bất cứ thứ lệ phí nào để có bài được xuất bản. Và cũng chính vì muốn tiết kiệm ngân sách là một trong những lý do tôi đã chủ trương tìm đến các tạp chí loại này để xuất bản các bài nghiên cứu của mình. 

Rồi nữa, nhiều người cũng lấy lý do là nghiên cứu khoa học thì sẽ tốn kém để biện minh cho việc không xuất bản được trên các tạp chí quốc tế. Nhưng ít nhất với tôi, trong lĩnh vực kinh tế, một vài nghiên cứu được tiến hành khi còn là nghiên cứu sinh mà chẳng hề tốn kém gì, đòi hỏi phương tiện gì ngoài sách, tạp chí ở thư viện của trường, điều mà hiện nay nhiều trường đại học và cơ sở nghiên cứu của Việt Nam hoàn toàn đáp ứng tốt.
Với những góp nhặt vụn vặt từ kinh nghiệm bản thân nói trên, tôi cho rằng cần phải rất thận trọng khi đánh giá thành tích nghiên cứu của các cá nhân kể cả khi họ có bài đăng trên tạp chí bằng ngoại ngữ, kể cả khi tạp chí đó xuất hiện trong các cơ sở dữ liệu tra cứu khoa học phổ biến trên thế giới. Nhiều trong số những tạp chí này đáng bị gọi là “ngụy” khoa học. Nói cách khác, không nên phiến diện khi cho rằng chỉ cần có bài đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có trích dẫn là đủ để xét duyệt và công nhận một cá nhân trong một vấn đề nào đó liên quan đến khoa học. Ngoài ra, việc nghiên cứu và xuất bản công trình khoa học ra quốc tế là một việc không đơn giản nhưng không  phải là một việc khó hay không thể nếu chỉ xét từ góc độ chi phí “làm” khoa học.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).