Friday 23 March 2018

Lỗ hổng phòng chống tham nhũng nhìn từ vụ AVG (Bài đăng trên TBKTSG, 24/3/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/270367/Lo-hong-phong-chong-tham-nhung-nhin-tu-vu-AVG.html

Vụ việc Mobifone mua 95% cổ phần của AVG với giá gần 9000 tỷ đồng từ đầu năm 2016 đã bị Thanh tra Chính phủ phát hiện có nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng và bị đề nghị chuyển cơ quan công an khởi tố điều tra.

Đọc Thông báo của Thanh tra Chính phủ về kết quả điều tra, chắc chắn nhiều người sẽ không tránh khỏi cảm giác bàng hoàng và phẫn nộ với một màn kịch “hoành tráng” được đạo diễn hết sức khéo léo, kín kẽ, nhiều lớp lang (thậm chí tính đến cả đường thoát hiểm), và hoàn toàn… đúng quy trình của một số cá nhân liên đới, đến độ thiếu chút nữa thì đúng là “bàn tay che nổi mặt trời”.

Trong vụ này có những sai phạm gì, như thế nào và của ai thì hầu như đã được làm rõ trong Thông báo của Thanh tra Chính phủ và sẽ còn tiếp tục được làm rõ hơn khi cơ quan công an bắt tay điều tra nghiêm túc. Điều quan trọng không kém là bài học về công tác phòng chống tham nhũng rút ra từ vụ việc này.

Khi chất lượng “đúng quy trình” bị bỏ quên!

Một trong những lời biện minh các cá nhân và tập thể liên đới để chạy tội phổ biến nhất trong các vụ việc có hơi hướng tham nhũng là họ đã làm đúng quy trình. Câu thần chú này không hiếm khi có hiệu nghiệm. Bởi quả thật là các quy định hiện hành của pháp luật thường chỉ tập trung vào việc quy định (chi tiết) quy trình thực hiện một cái gì đó, trong khi chất lượng việc thực hiện quy trình này của các cán bộ liên quan ra sao thì lại thường bị bỏ ngỏ, ngoài những câu chữ định tính hết sức chung chung như “thực hiện nghiêm”, “thực hiện đúng”.

Trở lại vụ việc AVG. Ví dụ về vai trò và trách nhiệm của Bộ Thông tin Truyền thông (TTTT) trong việc phê duyệt dự án mua AVG. Theo đúng quy trình, bộ này cũng thành lập Tổ thẩm định dự án với Tổ trưởng là một Vụ trưởng. Tổ thẩm định cũng so sánh các mức giá đưa ra bởi các nguồn khác nhau, trong đó có tổ chức định giá độc lập (và lấy mức giá thấp nhất). Tổ này cũng tổ chức lấy ý kiến phản biện. Dự án chỉ được lãnh đạo bộ phê duyệt sau khi Tổ trưởng thẩm định đã có tờ trình quyết định phê duyệt dự án đầu tư…

Tuy nhiên, trên thực tế, như Thông báo của Thanh tra Chính phủ đã chỉ rõ, Bộ TTTT đã cố ý làm trái nhiều vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của mình. Ví dụ Tổ thẩm định không xem xét, phân tích các thông tin, sử dụng thông tin về giá mà AVG “định bán” cho đối tác nước ngoài, không tổng hợp đầy đủ các ý kiến phản biện…

Như vậy, mặc dù là đã thực hiện đúng quy trình nhưng rõ ràng là chất lượng thực hiện quy trình này là rất có vấn đề, và đã không được kịp thời phát hiện.


Khi minh bạch bị “yểm bùa”
Câu hỏi được đặt ra ở đây là, tại sao những sai phạm, cố ý làm trái rành rành, nghiêm trọng như vậy lại không được phát hiện kịp thời bởi những cấp, những cơ quan có thẩm quyền?
Giả sử nếu công luận ngay từ đầu biết được tình trạng thực của AVG, giá trị giao dịch, cách thức thực hiện giao dịch… thì chắc chắn giao dịch mua bán này sẽ gặp ngay áp lực phản đối lớn và rốt cuộc sẽ bị hủy bỏ (tại mức giá đề xuất). Nói cách khác, nếu mọi việc đều được minh bạch, ít nhất ở một mức nào đó, ví dụ như giá trị giao dịch, thì chắc chắn sẽ không có giao dịch (với mức giá gần 9000 tỷ đồng) này.
Nhưng giao dịch vẫn diễn ra thành công. Và lý do là bởi sự minh bạch đã bị trấn yểm bằng lá bùa mang tên “Mật”!
Lá bùa này được vẽ nên bởi sự bắt tay tinh vi và rất đúng bài bản giữa những cá nhân liên đới trong Bộ TTTT và Bộ Công an. Phía Bộ TTTT thì gửi văn bản “đề nghị” Bộ Công an cho ý kiến đưa giao dịch mua AVG này vào danh mục Mật. Được tham vấn thì trả lời, Bộ Công an đã “thống nhất” với yêu cầu này của Bộ TTTT. 
Được khoác danh “Mật” với thời hạn không xác định do Bộ Công an xác nhận thì dự án đầu tư này đương nhiên thoát được khỏi nghĩa vụ minh bạch hóa, dù Mobifone là doanh nghiệp nhà nước, dù Bộ TTTT là cơ quan đại diện chủ sở hữu và đồng thời là cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông nên phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành về công bố thông tin.
Bài học
Như vậy, cái thiếu vắng hiện nay trong phòng chống tham nhũng không phải là sự thiếu vắng, không hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật hiện hành. Bởi vậy, nỗ lực phòng chống tham nhũng không nên, không chỉ tập trung vào “tiếp tục hoàn thiện” khuôn khổ pháp luật, tiếp tục đề ra và hoàn thiện các quy trình đầu tư, xét duyệt... như là một giải pháp hữu hiệu.
Thay vào đó, sự minh bạch hóa của doanh nghiệp nhà nước, của các cơ quan quản lý  là điểm rất yếu, yếu nhất trong công tác phòng chống tham nhũng hiện nay. Dù đã được chế tài khá đầy đủ bằng hàng loạt quy định pháp luật liên quan nhưng các đối tượng có nghĩa vụ minh bạch thông tin vẫn “nhởn nhơ” không công bố hoặc công bố không đầy đủ thông tin theo yêu cầu. Quan trọng hơn, sự vi phạm pháp luật trắng trợn này diễn ra đều đều, thường xuyên, nhưng hầu như chưa bao giờ bị xử lý (nghiêm túc, có tính răn đe mạnh), bất chấp những lời từ kiến nghị đến “quyết liệt” cảnh báo, răn đe, kể cả từ cấp cao trong Chính phủ.
Nguy hại hơn, vụ việc AVG có lẽ là lần đầu tiên còn cho thấy đã có sự bắt tay và lũng đoạn có hệ thống không chỉ trong nội bộ của một cơ quan, doanh nghiệp, mà còn ở cấp độ “liên bộ” hoặc cao hơn, dễ dàng vô hiệu hóa hiệu lực của hệ thống phòng chống tham nhũng. Nếu không có sự kiên quyết chỉ đạo của Ban Bí thư, có lẽ rồi vụ việc sẽ chìm vào im lặng bởi những lá bùa trấn yểm quá độc và những thế lực đằng sau đó quá lớn.
Bởi vậy, song song với thực hiện nghiêm minh việc minh bạch hóa thông tin, cơ quan phòng chống tham nhũng cần có người đứng đầu liêm chính, có bàn tay sắt và tinh thần chống tham nhũng tới cùng.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).