Thursday 28 June 2018

Nhìn nhận về DNNN đã thay đổi nhưng chưa thể yên tâm (Bài đăng trên TBKTSG, 28/6/2018, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/274093/nhin-nhan-ve-dnnn-da-thay-doi-nhung-chua-the-yen-tam.html

Quốc hội mới đây đã thông qua nghị quyết về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Nghị quyết này có một số nội dung đáng chú ý liên quan đến số phận các DNNN trong thời gian tới.

Thái độ đã thay đổi?

Một nội dung rất quan trọng được nêu trong nghị quyết là “DNNN đã chuyển dịch theo hướng tập trung hơn vào những ngành nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không tham gia, tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. (1)

Trước đây, quan điểm chính thống vẫn là khoác cho DNNN vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần để đảm bảo định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do thực tiễn đã thay đổi nên về sau quan điểm này đã phải được sửa sang cho hợp thời hơn. Cụ thể, thay vì DNNN, không biết chính xác từ khi nào và bắt đầu từ đâu, người ta đã lặng lẽ dùng khái niệm kinh tế nhà nước, bao gồm trong đó DNNN, để rồi Đại hội XII của Đảng đã chính thức khẳng định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. (2)

Tuy nhiên, trên thực tế, dường như không ít người hiểu rõ chuyện thay đổi chữ nghĩa trên chỉ là chuyện “hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Chẳng hạn, trong một bài viết sắc sảo trên báo Nhân Dân ngày 5/6/2017 bàn về sự thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tác giả Trương Minh Tuấn đã thẳng thắn nêu rõ: “Để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa đạt tới mục tiêu, trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo.” Đồng thời, tác giả cũng đã phản bác một cách thuyết phục các ý kiến bài bác hoặc tranh cãi tư biện về sự chủ đạo này, để một lần nữa làm bật lên ý nghĩa của vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. (3)

Nay, với nghị quyết trên của Quốc hội, DNNN “tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển cả kinh tế đất nước”, một vai trò có thể nói là khiêm tốn hơn nhiều so với vai trò chủ đạo trước đây và ngầm định như hiện nay. Và với cụm từ “tiếp tục đóng vai trò quan trọng”, có thể nói DNNN đã được gián tiếp thừa nhận là chưa bao giờ đóng vai trò chủ đạo (một cách thành công) trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Như vậy, rõ ràng đại đa số đại biểu Quốc hội khi bấm nút thông qua nghị quyết trên đã không còn băn khoăn gì nữa về sứ mạng, vai trò thật sự trong quá khứ, hiện tại, và tương lai của DNNN ở Việt Nam.

Chưa thể an tâm

Bên cạnh chuyện thay đổi thái độ đối với vai trò của DNNN để có thể từ đó Việt Nam không nhất thiết phải dồn (thêm) nguồn lực khan hiếm cho DNNN để mong ngóng chúng đóng tròn vai “chủ đạo” một ngày nào đó trong tương lai, nghị quyết trên của Quốc hội còn nêu rõ không dùng ngân sách để xử lý thua lỗ của doanh nghiệp. Nếu được thực hiện nghiêm túc, đây là những thay đổi, quyết định rất sáng suốt, hợp lòng dân. Bởi nếu mổ xẻ những dự án, những DNNN làm ăn thua lỗ trong suốt thời gian dài đều thấy rõ những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như tham ô, tham nhũng, cố ý làm trái quy định của pháp luật và sự yếu kém của lãnh đạo doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản. Không có một ngân sách nào, không có một nguyên tắc tài chính nào cho phép và/hoặc đủ khả năng để bù lỗ mãi cho những yếu kém và sai phạm như vậy. Và cũng không có một phép mầu nào để nói “chắc như bắp” rằng nếu bỏ tiền ngân sách ra xử lý nợ nần, thua lỗ của DNNN thì chỉ cần một vài năm sau DNNN sẽ hồi phục và làm ăn có lãi, như đã từng được tuyên bố trước đây.

Tuy nhiên, nghị quyết là một chuyện, thực tế có thể là một chuyện khác. Từ góc độ của cơ quan chủ quản, của Chính phủ, nếu không được phép dùng ngân sách để xử lý nợ nần, thua lỗ của DNNN, Chính phủ chỉ còn hai lựa chọn. Một là để DNNN phá sản, đóng cửa. Hai là bằng một hình thức trá hình nào đó, Chính phủ vẫn (gián tiếp) sử dụng ngân sách để tài trợ cho các DNNN thua lỗ. Điều rõ ràng ở đây là lựa chọn thứ nhất sẽ là rất khó khăn, “nhạy cảm” về chính trị, và là điều không mong muốn (cả vì lợi ích chính trị chung của quốc gia cũng như lợi ích riêng của cá nhân, của một nhóm người liên quan).

Trong khi đó, thực hiện lựa chọn thứ hai vừa có lợi hơn trên nhiều mặt, cho một số người, mà thực ra lại không khó khăn lắm, vì ít khả năng vấp phải sự phản đối của dư luận do không dùng đến từ nhạy cảm là “sử dụng ngân sách”!

Để minh họa, hãy xem kế hoạch xử lý một số dự án thua lỗ của Bộ Công thương được công bố. Tuy các chủ dự án, các cơ quan chức năng không dám, không còn đề xuất nhà nước tiếp tục rót ngân sách để tái cấp vốn hay tăng vốn cho những DNNN thua lỗ này nữa, nhưng thay vào đó lại đưa ra nhiều kiến nghị và đề xuất mà xét cho cùng đều là lấy từ ngân sách, hoặc làm tổn hại đến ngân sách, hoặc làm tổn hại đến lợi ích công cộng.

Chẳng hạn, với Nhà máy PVTex, các đối tác của nhà máy “mong muốn Chính phủ cam kết bảo đảm quyền lợi của họ trong quá trình hợp tác, áp dụng các hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu polyester, bảo đảm nguồn điện ổn định tại khu công nghiệp Đình Vũ...”. (4) Chính phủ cam kết đảm bảo quyền lợi thì cũng không khác gì một hình thức Chính phủ sẽ phải bù lỗ cho doanh nghiệp, và tất nhiên là bằng ngân sách. Áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu polyester chẳng qua là một hình thức bảo hộ, làm lợi cho doanh nghiệp và làm hại cho nền kinh tế nói chung, đồng thời gây ra xung đột thương mại với các nước đối tác. Bảo đảm nguồn điện ổn định nghe có vẻ hợp lý hơn, không dính dáng gì đến ngân sách, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu Chính phủ vẫn phải bảo đảm cung cấp điện cho nhà máy kể cả khi nhà máy thua lỗ, không (muốn) chi trả tiền điện?

Tương tự, về phương án tài chính, phương án chung vẫn là giảm khấu hao và yêu cầu các tổ chức tín dụng khoanh nợ, giãn nợ (thông qua Ngân hàng Nhà nước). Có những nhà máy như PVTex và DAP thì lại đề nghị tiếp tục được vay (dùng) tiền của tập đoàn là Petro Vietnam hay Vinachem. Do tiền cấp/cho vay từ những tập đoàn, tổ chức tín dụng này cũng là tiền ngân sách (hoặc ngân sách sẽ phải chịu trách nhiệm khi các tập đoàn/tổ chức tín dụng này không thu hồi được vốn cho vay/cấp phát), nên rốt cuộc thì vấn đề sẽ quay trở về điểm xuất phát là không dùng ngân sách xử lý thì không xong!

Tóm lại, nhận thức về DNNN tỏ ra là đã tiến thêm được một bước quan trọng như được  thể hiện qua việc “giáng cấp” vai trò của chúng trong nền kinh tế, đi kèm với khẳng định không dùng ngân sách xử lý thua lỗ của chúng. Nhưng chắn chắn rằng việc đưa chuyển biến nhận thức này thành hành động, thành kết quả sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể, ít nhất là trong vài năm tới.

(1) http://cafef.vn/quoc-hoi-khong-dung-ngan-sach-xu-ly-thua-lo-cua-doanh-nghiep-20180615104506093.chn
(2) http://www.qdnd.vn/thuc-hien-hieu-qua-nghi-quyet-trung-uong-iv-khoa-xii-cua-dang/kinh-te-nha-nuoc-giu-vai-tro-chu-dao-501779
(3) http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/33073602-suc-thuyet-phuc-cua-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia.html
(4) http://vneconomy.vn/12-du-an-thua-lo-dang-tren-da-hoi-sinh-20180226230401355.htm

Wednesday 27 June 2018

Liệu kinh tế Việt Nam có khủng hoảng năm 2019? (Bài đăng trên CafeF, 27/6/2018)

http://cafef.vn/lieu-kinh-te-viet-nam-co-khung-hoang-nam-2019-20180627141235684.chn

Sau những cuộc khủng hoảng xảy ra tại Việt Nam những năm 1979, 1989, 1999 và 2009, Chính phủ và giới quan sát đang lo ngại chu kỳ khủng hoảng cứ 10 năm một lần sẽ xuất hiện trở lại ở Việt Nam năm sau. 

Những căn cứ cho lo ngại có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng mới ở Việt Nam được chỉ ra gồm: độ mở rất lớn của nền kinh tế (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bằng 193% GDP năm 2017); nền tảng và nguồn lực tăng trưởng trong nước có vấn đề. 
Những mâu thuẫn của nền kinh tế nằm ở sự chia tách giữa các khu vực như FDI và trong nước, kinh tế phụ thuộc nhiều vào FDI, hay dù hội nhập sâu rộng nhưng việc tận dụng, khai thác còn kém; sự chuyển dịch của dòng tiền từ thị trường sản xuất vào thị trường tài sản (đất đai, chứng khoán) dẫn đến bong bóng tài sản, và khi thị trường quá nóng, bong bóng đổ vỡ có thể kéo theo sự khủng hoảng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, công bằng mà nói thì các căn cứ trên đều khá chung chung và, quan trọng hơn, không chỉ ra được tại sao khủng hoảng có khả năng sẽ nổ ra vào năm 2019 chứ không phải là một năm trước hoặc sau đó.
Cụ thể hơn, nếu nói về độ mở lớn của nền kinh tế để lo ngại khả năng đổ vỡ thì cần lưu ý rằng trên thế giới có không ít quốc gia hoặc nền kinh tế mà tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP còn lớn hơn cả Việt Nam như Hong Kong (373 % GDP năm 2016), Luxembourg (407%), Malta (268%), Singapore (318%), Slovak (186%), Các Tiểu vương quốc Ả rập (205%), so với mức 185% năm 2016 của Việt Nam, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới.
Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào độ mở của nền kinh tế tính theo kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP thì chưa thể nói lên được tính mong manh, dễ vỡ của nền kinh tế. Bởi chỉ tiêu này còn phản ánh một thực tế là nền kinh tế sở tại có thể là một điểm trung chuyển hàng hóa, và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ khi đã có hiện tượng hàng hóa nước ngoài đội lốt hàng Việt Nam xuất đi các nước khác. 
Hơn nữa, cũng không có chuẩn mực nào hay một trường hợp thực tế nào để tin rằng nếu độ mở này tiếp tục tăng và đạt, ví dụ, 200% GDP năm sau thì nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp nguy khốn.
Về lý do nền tảng và nguồn lực tăng trưởng trong nước có vấn đề và sự chia tách nền kinh tế thành 2 khu vực (FDI và trong nước), đây có thể là một thực tế. Nhưng, tương tự như lập luận ở trên, đâu là điểm ngưỡng để dẫn đến tình trạng "quá mù ra mưa" nếu những bất cập này tiếp tục tồn tại và phát triển làm bùng phát thành một cuộc khủng hoảng năm sau mà không phải là những năm sau đó?
Về nguyên nhân bong bóng tài sản dẫn đến khủng hoảng kinh tế, đây cũng là một thực tế đã được chứng thực ở nhiều nơi trên thế giới. Có điều, nếu nói rằng Việt Nam đang chứng kiến bong bóng bất động sản và chứng khoán thì e rằng là hơi sớm, cần phải có nhiều dữ liệu và phân tích thấu đáo hơn để làm hậu thuẫn cho kết luận này. Nhìn chung, giá bất động sản có gia tăng mạnh nhưng không phải trên diện rộng, mà chỉ ở một số phân khúc, một số địa phương, vùng. 
Còn với thị trường chứng khoán, sau những thăng hoa mấy tháng trước (nhưng không phải tăng trưởng kiểu tên lửa, ngày nào cũng tăng và tăng kịch biên độ), chỉ số chứng khoán đã quay trở lại giai đoạn lình xình, điều chỉnh mạnh trong mấy tuần gần đây. Trong khi đó, nguồn "dinh dưỡng" quan trọng nhất cho cả 2 thị trường này bùng nổ là tín dụng ngân hàng thì đã bị siết lại từ 2, 3 năm nay, với tăng trưởng tín dụng chung cũng chậm lại đáng kể so với mấy năm trước.
Ngoài các căn cứ được nêu ra bên trên, xin bổ sung thêm một số căn cứ khác thường được dùng để phán định liệu một nền kinh tế có phải là đang trong trạng thái tăng trưởng nóng để rồi chắc chắn sau đó sẽ rơi vào trạng thái đóng băng và khủng hoảng hay không, mà có thể áp dụng cho Việt Nam.
Căn cứ bổ sung đầu tiên là lạm phát. Một thực tế không thể phủ nhận là lạm phát ở Việt Nam thường cao hơn đáng kể so với các nước trong khu vực và thế giới, như được minh họa trong bảng dưới đây.
Liệu kinh tế Việt Nam có khủng hoảng năm 2019? - Ảnh 1.
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của IMF (số liệu từ 2018 là ước tính)
Tuy nhiên, điều cần ghi nhận là Việt Nam đã khá thành công trong kiềm chế lạm phát trong hai thập kỷ qua. Đặc biệt là lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2019 thậm chí còn bằng hoặc thấp hơn cả của các nhóm so sánh. Nói cách khác, dễ thấy là lạm phát tuy có xu hướng tăng lên ở Việt Nam trong năm nay và năm sau nhưng về tổng thể, lạm phát của Việt Nam không phải là ngoại lệ, cũng không phải là ngòi nổ làm bùng phát một cuộc khủng hoảng, ít nhất là trong năm sau.
Căn cứ bổ sung thứ hai là tốc độ tăng trưởng đầu tư. Ngược lại so với khu vực và thế giới, đầu tư đã tăng trưởng chậm lại ở Việt Nam trong thập kỷ hiện nay so với 10 năm trước, đặc biệt trong giai đoạn 5 năm từ 2015-2019. 
Điều này được thể hiện qua số liệu về tổng mức đầu tư trong nền kinh tế tính theo % GDP của Việt Nam và khu vực và thế giới có trong bảng dưới đây. Như vậy, một trong những yếu tố dẫn đến tăng trưởng kinh tế nóng và có thể làm sụp đổ một nền kinh tế là tăng trưởng đầu tư cao đã không hiện diện ở Việt Nam, nhất là trong nửa sau của thập niên này.
Tỷ lệ đầu tư/GDP của  Việt Nam so với khu vực và thế giới

Liệu kinh tế Việt Nam có khủng hoảng năm 2019? - Ảnh 2.
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của IMF (số liệu từ 2018 là ước tính)
Cuối cùng, để biết một nền kinh tế có rơi vào tình trạng nóng sốt hay không thì người ta cũng dựa vào chỉ số xuất/nhập siêu hoặc cán cân vãng lai. Nếu nhập siêu và/hoặc thâm hụt cán cân vãng lai là hiện tượng kinh niên thì nền kinh tế dễ bị tổn thương bởi nợ nước ngoài tăng cao dùng để bù đắp thâm hụt vãng lai. 
Tuy nhiên, số liệu của IMF cũng cho thấy cán cân vãng lai của Việt Nam được dự đoán sẽ chỉ bị thâm hụt trong 2 năm của thập kỷ này là năm 2010 và 2015. Do đó, có căn cứ để loại  thâm hụt vãng lai như một yếu tố tiềm tàng gây ra khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam trong những năm tới, ít nhất là năm 2019.
Tóm lại, phân tích ở trên cho thấy tuy nền kinh tế Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất ổn nhưng chưa có bằng chứng xác đáng nào để lo ngại xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm 2019 ở quy mô và cấp độ như đã từng được chứng kiến trong 3 thập kỷ trước.

Sunday 24 June 2018

Hãy chấp nhận và tìm cách chung sống với đồng USD mạnh lên (Bài đăng trên CafeF, 25/6/2018)

http://cafef.vn/chuyen-gia-hay-chap-nhan-va-tim-cach-chung-song-voi-dong-usd-manh-len-20180624234044579.chn

Đồng USD đã mạnh lên đáng kể so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, với dollar index thời điểm hiện tại đã tăng gần 6% so với đầu năm nay. Nhiều nhận định cho rằng USD sẽ còn tiếp tục gia tăng trong thời gian tới khi Fed có khả năng sẽ tăng lãi suất tại Mỹ thêm 2 lần nữa trong thời gian còn lại của năm nay.
Trong bối cảnh như vậy, VND tất yếu sẽ chịu áp lực mất giá so với USD. Tuy nhiên, so với thời điểm đầu năm, VND mới chỉ yếu đi 0,8%, là mức rất khiêm tốn so với sự yếu đi của nhiều đồng tiền chủ chốt như đã nói ở trên. Đây có thể là một phần kết quả của việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động và chấp nhận để VND "nương theo chiều gió", yếu đi một chút so với USD nhằm duy trì tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, mặc dù họ có đủ khả năng và công cụ can thiệp để ổn định tỉ giá VND/USD trong ngắn hạn.
Lưu ý thêm rằng NHNN đã nhiều lần cho biết về định hướng chính sách của mình là "sẽ thực hiện đồng bộ các biện pháp và công cụ chính sách tiền tệ để ổn định thị trường ngoại tệ và tỉ giá trong biên độ cho phép". Theo tuyên bố này, NHNN không cam kết sẽ ổn định tỉ giá một cách cứng nhắc, tức "neo" tỉ giá, mà chỉ cam kết "ổn định tỉ giá trong biên độ cho phép". Có thể hiểu "biên độ cho phép" ở đây là mức biến động +/-3% xung quanh tỉ giá trung tâm do NHNN công bố hàng ngày. Cho dù biên độ biến động này được cố định (+/-3%), nhưng điều này không có nghĩa là tỉ giá VND/USD sẽ được/bị cố định, bởi vì NHNN còn nắm trong tay một công cụ "động" khác là tỉ giá trung tâm - một biến số động, thay đổi hàng ngày. Và quả thật, trên thực tế, tỉ giá trung tâm có thay đổi, và đã thay đổi đáng kể hàng ngày, chứ không nằm bất định hàng nhiều tháng như với tỉ giá liên ngân hàng mà NHNN công bố trước đây.
Như vậy, với cơ chế tỉ giá dựa trên tỉ giá trung tâm và biên độ biến động +/-3%, NHNN đã ly khai chủ trương ổn định tỉ giá một cách cứng nhắc trước đây của mình và thực tế đã chuyển sang một chế độ tỉ giá linh hoạt, mở đường để VND biến động đáng kể theo tình hình thực tế trong và ngoài nước. Trong bối cảnh này, điều đáng ngạc nhiên là có khá nhiều ý kiến lo ngại về chuyện VND mất giá so với USD, cũng như đề xuất hay kỳ vọng NHNN ổn định tỉ giá (theo nghĩa là để tỉ giá VND/USD gần như cố định hay thay đổi không đáng kể).
Như đã được phân tích trước đây và cũng là một phần của chủ trương linh hoạt với tỉ giá của NHNN, VND yếu đi so với USD là xu thế cần phải và có thể chấp nhận được. Điều cần quan tâm là làm cách nào thích nghi được với xu thế này để giảm thiểu những thiệt hại, nếu có, cho toàn bộ nền kinh tế cũng như với từng chủ thể kinh tế.
Tác động tiêu cực đầu tiên thường được nhắc đến khi tỉ giá tăng lên là gia tăng áp lực lạm phát trong nước, do giá nhập khẩu hàng hóa thế giới quy ra VND tăng lên. Nhưng điều này không nhất thiết luôn đúng như vậy. Bởi hàng hóa thế giới là do nhiều nước cung cấp, không chỉ có những nước sử dụng USD. Trong khi đó, khi USD mạnh lên so với các đồng tiền khác, gồm các đồng tiền của những nước cung cấp hàng hóa cho thế giới, thì thường có xu hướng là giá cả hàng hóa sẽ tăng chậm lại, không tăng, hoặc thậm chí sụt giảm. Lý do đơn giản là bởi giá thành sản xuất hàng hóa tại nước sở tại tính bằng bản tệ nên nếu bản tệ yếu đi so với USD thì giá xuất khẩu hàng hóa đó tính theo USD cũng phải giảm đi.
Chuyên gia: Hãy chấp nhận và tìm cách chung sống với đồng USD mạnh lên - Ảnh 1.
Đồ thị Chỉ số giá cả hàng hóa của Bloomberg (Bloomberg Commodity Index) ở bên minh họa thực tế trên. Theo đó, dù USD có xu hướng mạnh lên đáng kể từ giữa năm 2014 nhưng chỉ số giá cả hàng hóa thế giới lại giảm mạnh từ năm đó và chỉ phục hồi và tăng nhẹ tại một số thời điểm trong nửa đầu năm nay.
Như vậy, dù tỉ giá VND/USD có tăng lên nhưng do giá hàng hóa nhập khẩu bằng USD thậm chí giảm đi nên giá nhập khẩu hàng hóa bằng VND nhìn chung có khả năng sẽ không thay đổi, hoặc thay đổi không đáng kể, không làm gia tăng áp lực lạm phát trong nước.
Ngược lại, áp lực lạm phát thường gia tăng do các yếu tố trong nước, mà điển hình là áp lực do gia tăng cung tiền. Nếu NHNN thận trọng hơn (và thực tế họ đã như vậy) với gia tăng cung tiền như là kết quả một phần của việc bơm thanh khoản cho hệ thống để hạ lãi suất, và một phần do đã mua vào nhiều USD trong thời gian qua, thì sẽ giảm bớt áp lực lạm phát trong nước.
Điều đáng nói thêm ở đây chỉ là liệu sự thận trọng với cung tiền này của NHNN có gây "khó dễ" cho lãi suất và, do đó, cho tăng trưởng kinh tế hay không mà thôi. Nhưng cũng như đã được phân tích rõ, thực tế vài năm qua cho thấy tăng trưởng cung tiền và tín dụng không đồng hành với tăng trưởng kinh tế. Thậm chí ngược lại, tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh tăng trưởng tiền tệ quá mức thường phải trả giá đắt sau này.
Và có lẽ đã nhận thức rõ được mối liên hệ này mà NHNN gần đây đã không còn chịu áp lực phải đẩy mạnh cung tiền và tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như trước. Thay vào đó, Chính phủ tiếp tục tìm cách tháo gỡ các rào cản kinh tế để cải thiện hiệu quả sử dụng các nguồn lực, coi đó là một kênh chính để cải thiện tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng sự sụt giảm tăng trưởng, nếu có, do sụt giảm tăng trưởng cung tiền (và do đó làm tăng lãi suất) sẽ được bù đắp bởi hiệu ứng tích cực từ tỉ giá tăng lên, kích thích xuất khẩu.
Đương nhiên, tỉ giá gia tăng có thể sẽ làm hại nhà nhập khẩu hoặc những nhà sản xuất dựa nhiều vào nhập khẩu đầu vào, nếu họ không tìm được nguồn nhập khẩu thay thế có giá nhập khẩu bằng USD rẻ hơn. Để thích ứng với tình trạng này và giảm thiểu tác động, những nhà sản xuất và nhập khẩu này cần phải tăng cường sử dụng hàng trong nước thay thế hoặc tìm cách cắt giảm chi phí nếu muốn tiếp tục tồn tại.
Tóm lại, sự (tiếp tục) yếu đi của VND là một xu thế hợp lý trên nhiều khía cạnh. Do việc ổn định tỉ giá là một điều không tưởng hiện nay nên các chủ thể kinh tế bị tác động bởi sự yếu đi của VND cần chủ động có biện pháp khắc phục tương ứng.

Monday 18 June 2018

Sửa đổi Thông tư 06: Giải quyết sở hữu chéo có bị ảnh hưởng? (Bài đăng trên CafeF, 18/06/2018)

http://cafef.vn/sua-doi-thong-tu-06-giai-quyet-so-huu-cheo-co-bi-anh-huong-20180618104418829.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 06/2015/TT-NHNN quy định thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại Điều 55 Luật các tổ chức tín dụng (TCTD).
Điều đáng chú ý là dự thảo thông tư quy định trước ngày 30/06/2019, tổ chức tín dụng khác phối hợp với cổ đông lớn của một tổ chức tín dụng và người có liên quan của cổ đông đó sở hữu cổ phần vượt giới hạn lập Kế hoạch khắc phục đảm bảo tuân thủ quy định tại Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung). 
Trong khi đó, tại Thông tư 06/2015, NHNN quy định TCTD phối hợp với cổ đông, nhóm cổ đông có liên quan sở hữu cổ phần vượt giới hạn lập Kế hoạch khắc phục việc sở hữu cổ phần vượt giới hạn, đảm bảo chậm nhất ngày 31 tháng 12 năm 2015 tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông, nhóm cổ đông có liên quan tại TCTD phải tuân thủ quy định tại Luật các tổ chức tín dụng, trừ một số trường hợp ngoại trừ theo quy định.
Thời hạn mới nêu trong dự thảo thông tư như trên dẫn đến một câu hỏi liên quan là phải chăng NHNN đang tìm cách trì hoãn thời hạn xử lý sở hữu chéo trong ngành ngân hàng (chuyển thời hạn từ 31/12/2015 sang thời hạn 30/06/2019)?
Câu trả lời là không. Bởi căn cứ để ban hành Thông tư 06/2015 là Luật Các tổ chức tín dụng 47/2010/QH12. Nhưng Luật các tổ chức tín dụng này đã được sửa đổi, bổ sung Bởi Luật số 17/2017/QH14 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 20/11/2017. Do đó, tất yếu là Thông tư 06/2015 cũng sẽ phải được sửa đổi tương ứng để hướng dẫn các quy định mới trong Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng.
Một điều liên quan khác đến thời hạn mới nói trên là khoảng cách thời gian từ lúc Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực đến lúc thông tư hướng dẫn về thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn đã được rút ngắn lại đáng kể.
Cụ thể, Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010 có hiệu lực từ 1/1/2011 nhưng phải đến tận tháng tháng 6/2015 thì Thông tư 06/2015 mới được ban hành (và có hiệu lực từ 15/7/2015). Trong khi đó, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng được ban hành ngày 20/11/2017 (và có hiệu lực từ 15/1/2018) nhưng NHNN đã xây dựng dự thảo sửa đổi Thông tư 06/2015 và nhắm đến ngày có hiệu lực của dự thảo này là ngày 30/6/2019, tức một năm rưỡi sau khi Luật Các tổ chức tín dụng được sửa đổi và có hiệu lực.
Bên cạnh khả năng là "hiệu quả" làm việc của NHNN đã được cải thiện (!), việc rút ngắn thời hạn ban hành và thực thi thông tư hướng dẫn như trên có khả năng là do việc thi hành quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng đã trở nên dễ dàng hơn so với trước, không cần phải tốn quá nhiều thời gian chuyển tiếp.
Cụ thể hơn, dự thảo thông tư mở rộng phạm vi điều chỉnh so với Thông tư 06/2015, có thêm đối tượng là các cổ đông lớn và người có liên quan sở hữu cổ phần từ 5% trở lên vốn điều lệ của một TCTD khác quy định tại khoản 14 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng số 17/2017/QH14 phát sinh trước ngày Luật sửa đổi này có hiệu lực thi hành.
Với những cổ đông lớn và người có liên quan được điều chỉnh bởi Luật Các tổ chức tín dụng cũ (năm 2010) thì có thể hiểu là đã (và đang) được xử lý bởi các quy định hiện hành. Nói cách khác, số lượng vụ việc và khối lượng công việc phải xử lý theo dự thảo thông tư mới, nếu có, sẽ không nhiều, hoặc chỉ là một phần so với hiện tại, nên việc rút ngắn thời hạn xử lý là có cơ sở.
Tóm lại, việc soạn thảo và ban hành thông tư mới thay thế Thông tư 06/2015 chắc chắn không phải là một bước lùi trong việc xử lý sở hữu chéo tại các TCTD, mà chỉ đơn giản là một hành động cần thiết để hướng dẫn thi hành các quy định mới khi Luật Các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi, bổ sung, liên quan đến sở hữu chéo.
Tuy vậy, do Luật Các tổ chức tín dụng được sửa đổi theo hướng chặt chẽ hơn liên quan đến sở hữu chéo nên có thể tin rằng việc cho ra đời một thông tư mới thay thế Thông tư 06/2015 cũng là một bước tiến mới và cần thiết trong việc khắc phục và phòng chống nạn sở hữu chéo tràn lan trong hệ thống ngân hàng, góp phần cải thiện sức khỏe và tính bền vững của các TCTD trong tương lai.
Nhưng cũng cần lưu ý rằng sở hữu chéo thể hiện trên sổ sách chỉ là một phần của tảng băng nổi nên sửa đổi và ban hành các văn bản luật và dưới luật cũng chỉ là một điều kiện cần trong công cuộc xử lý sở hữu chéo ở Việt Nam. 

Tuesday 5 June 2018

XỬ LÝ CHO VAY KIỂU LÀM PHIỀN KHÁCH, ĐÒI NỢ QUẤY RỐI RA SAO? (Bài đăng trên Zing, 6/6/2018)

https://news.zing.vn/xu-ly-cho-vay-kieu-lam-phien-khach-doi-no-quay-roi-ra-sao-post847430.html

TỪ MỘT THỊ TRƯỜNG ĐẦY TIỀM NĂNG...

Cho vay tiêu dùng đang trên đà khởi sắc mạnh mẽ ở Việt Nam từ vài năm gần đây với một loạt yếu tố hỗ trợ tích cực.
Mặt bằng lãi suất đã ở mức “dễ thở” hơn nhiều so với cách đây 5 năm do lạm phát đã được kiềm chế khá thành công, trong khi thu nhập vẫn tiếp tục được cải thiện song hành cùng tăng trưởng GDP.
Phát triển tín dụng tiêu dùng còn được cổ vũ như một công cụ để chống lại nạn "tín dụng đen".
Chuyên gia Phan Minh Ngọc
Đây là những tiền đề để người tiêu dùng trở nên cởi mở và sẵn sàng hơn trong việc đi vay để mua sắm tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của mình và gia đình.
Thu nhập cải thiện và chất lượng cuộc sống tốt hơn cũng làm cho người tiêu dùng hiện nay ngày càng quan tâm hơn đến vay trả góp để mua sắm hay sửa chữa nhà cửa.
Mặt khác, sự phổ cập thẻ tín dụng đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng nhờ sự gia tăng mạnh của ngành bán lẻ qua sự phổ cập ngày càng sâu rộng của mạng Internet và nhờ ngày càng có nhiều điểm bán lẻ chấp nhận thanh toán thẻ tín dụng.
Ở tầm vĩ mô hơn, phát triển tín dụng tiêu dùng thậm chí còn được cổ vũ như một công cụ để chống lại nạn "tín dụng đen". Những động thái này đã cộng hưởng mạnh với nhu cầu mua sắm tiêu dùng cao hơn của người tiêu dùng để tạo ra một thị trường cho vay tiêu dùng đầy tiềm năng tăng trưởng ở Việt Nam.

... ĐẾN CHUYỆN LÀM PHIỀN KHÁCH, ĐÒI NỢ KIỂU QUẤY RỐI

Tuy vậy, sự phát triển mạnh của cho vay tiêu dùng cũng đã và đang tạo ra nhiều hệ lụy.
Về phía các công ty tài chính và ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng tiêu dùng, kiểm soát nợ xấu là một thách thức lớn, do bản chất cho vay tiêu dùng phần nhiều dựa vào tín chấp chứ không phải là thế chấp bằng tài sản. Trong khi đó, các con nợ có vô vàn lý do để bị/chủ động “mất khả năng thanh toán”.
Về phía người vay, họ cũng gặp nhiều phiền toái, đối mặt với nhiều vấn đề.
Nếu người vay đang có khoản vay quá hạn do bất kể lý do nào đó, họ sẽ liên tục bị quấy rầy, làm phiền bởi các chủ nợ hoặc công ty đòi nợ thuê.
Nếu là người vay tiềm năng, họ sẽ bị quấy rầy bởi, ví dụ, các loại quảng cáo, tin nhắn, cuộc gọi điện thoại vào bất cứ thời điểm nào, ở bất cứ địa điểm nào...
Bởi vậy, thị trường cho vay tiêu dùng cần được quản lý để phát triển lành mạnh. Nhiệm vụ này chủ yếu nằm ở các cơ quan hữu trách của Nhà nước, điển hình là Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính.

QUẢN LÝ THẾ NÀO?

Cho vay có chọn lọc, tránh kiểu "ai cũng vay được":
Giải pháp quản lý cần thực hiện trước tiên là từng bước siết chặt các quy chế và luật lệ về cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm, thế chấp.
Thực tế cho thấy không phải món nợ xấu nào cũng là do người vay cố tình chây ì, không trả nợ. Nhiều khi việc không trả được nợ là do gánh nặng trả lãi và gốc của các khoản vay tiêu dùng ngày càng tăng lên vượt quá khả năng chi trả của người vay.
Các con nợ có vô vàn lý do để bị/ chủ động "mất khả năng thanh toán".

Để hạn chế rủi ro mất khả năng chi trả này, các cơ quan chức năng cần đặt ra các quy định cho ngân hàng và tổ chức tài chính thực hiện.
Chẳng hạn phải rà soát, xem xét tổng số nợ của các cá nhân và hộ gia đình cũng như hạn mức tín dụng cho họ trước khi phát hành thẻ tín dụng hoặc cấp hạn mức tín dụng không có tài sản thế chấp, đảm bảo. 
Để làm được việc này, cần thiết phải xây dựng, củng cố và phát triển cơ sở dữ liệu cá nhân thống nhất và tập trung cho toàn bộ dân số trong độ tuổi trưởng thành. Chỉ khi thực hiện tốt được việc này thì các ngân hàng và tổ chức tài chính mới có thể nắm chính xác lịch sử tín dụng như thế nào và các khoản vay nợ hiện tại của mỗi cá nhân ở Việt Nam là bao nhiêu, cho những mục đích gì.
Giám sát hạn mức đảm bảo an toàn:
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cũng cần xây dựng, ban hành và giám sát việc thực thi những hạn mức bảo đảm an toàn.
Ví dụ như hạn mức tỷ lệ tổng chi trả nợ và lãi vay so với tổng thu nhập cá nhân và hộ gia đình, nhằm hạn chế người tiêu dùng trong việc vay tiêu dùng quá mức (từ các ngân hàng và tổ chức tài chính khác nhau), vượt quá khả năng chi trả định kỳ lãi và gốc các khoản vay của họ.
Đây là những “chiếc van” an toàn hữu hiệu cần thực thi nghiêm túc, bởi, trong nhiều trường hợp, chỉ riêng nghĩa vụ trả lãi và nợ gốc vay (mua nhà, ôtô) đã vượt quá nửa thu nhập của cả hộ gia đình người vay ở Việt Nam, dẫn đến khả năng vỡ nợ cao nếu có bất cứ rủi ro nào trong thu nhập và việc làm của các thành viên gia đình.
Hạn mức bảo đảm an toàn là chiếc van hữu hiệu cần thực thi nghiêm túc để tránh khả năng vỡ nợ khi có rủi ro thu nhập, việc làm.

Có quy định chặt chẽ và yêu cầu thực hiện nếu bên cho vay muốn thu phí, lãi suất cao “bất thường”:
Ngược lại, các cơ quan chức năng phải ban hành và thực thi các quy định bắt buộc ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phải công bố và thực thi đầy đủ các điều khoản và điều kiện để được áp dụng phí và lãi suất cao “bất thường” với một số khoản cho vay. Việc ban hành và áp dụng các hạn mức về lãi phạt trả trước hạn và lãi suất theo kiểu cho vay nặng lãi “xã hội đen” cũng cần được thực hiện.
Có khuôn khổ luật pháp chế tài với việc đòi nợ của chủ nợ, công ty đòi nợ thuê: Các cơ quan chức năng cần xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ luật pháp chế tài việc đòi nợ của các chủ nợ và công ty đòi nợ thuê.
Tuy hiện nay đã có một số quy định pháp lý liên quan đến vấn đề này (Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ với một số quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong dịch vụ đòi nợ) nhưng các quy định này còn khá chung chung và việc xử lý các vụ việc vi phạm vẫn chưa thực sự hữu hiệu, có tính chất răn đe và phòng ngừa mạnh mẽ.
Do đó, việc cần thực hiện ngay là xây dựng và ban hành quy định pháp luật về các biện pháp đòi nợ thỏa đáng tương tự như đạo luật FDCPA (Fair Debt Collection Practices Act) ở Mỹ, để bảo vệ người tiêu dùng không bị chủ nợ và công ty đòi nợ thuê áp dụng các biện pháp đòi nợ mang tính xúc phạm, không thỏa đáng.
Song song đó, cần tuyên truyền rộng rãi quyền và những việc có thể làm được của người vay nếu bị vướng vào những hoàn cảnh này, ví dụ, lưu lại mọi bằng chứng đe dọa, nhục mạ của chủ nợ/công ty đòi nợ thuê và tố cáo với cơ quan chức năng theo dõi việc thực hiện quy định liên quan về đòi nợ.
Có giải pháp để người tiêu dùng không bị làm phiền: Trước thực tại ở Việt Nam là người tiêu dùng hàng ngày hàng giờ bị tra tấn không ngừng nghỉ bởi các tin nhắn rác và cuộc gọi quảng cáo đủ thứ từ bất động sản đến thẻ tín dụng và mua ôtô... cần có những quy định bảo vệ người tiêu dùng.
Chẳng hạn củng cố việc bảo vệ dữ liệu cá nhân, thiết lập và duy trì việc đăng ký các các số điện thoại không được làm phiền (Do Not Call Registry) như có ở một số nước để nghiêm cấm các cá nhân và doanh nghiệp gọi điện, gửi tin nhắn và thư quảng cáo đến những số điện thoại đã đăng ký trong danh sách không được làm phiền này.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).