Sunday 29 July 2018

Tỷ giá và sự phối hợp chính sách mới ̣̣(Bài đăng trên CafeF, 30/7/2018)

http://cafef.vn/dang-chu-y-ty-gia-va-su-phoi-hop-chinh-sach-moi-20180730082114568.chn


Diễn biến của tỷ giá VND/USD trong hai tháng qua đã cho thấy có những chuyển biến rất mới về chính sách liên quan của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng như sự phối hợp về chính sách (chính sách tài khóa và tiền tệ) giữa NHNN và Bộ Tài chính.

Trước tiên, nói về chính sách tỷ giá của NHNN, bắt đầu từ trung tuần tháng 6, VND bắt đầu phải đối mặt với áp lực mất giá ngày càng mạnh hơn theo đà leo thang của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và sự mạnh lên của USD. Như thường lệ, dư luận lại xôn xao và kỳ vọng NHNN sẽ có những hành động ổn định tỷ giá như trước đây. Đáp lại, và cũng như thường lệ, NHNN lên tiếng trấn an với tuyên bố có đủ công cụ và nguồn lực để ổn định tỷ giá. Nhưng điểm mới mà ít người để ý đến là trong thông điệp ổn định tỷ giá này, sự “ổn định” chỉ mang tính tương đối, vì tỷ giá tuy chỉ được phép biến động trong một biên độ ấn định nhưng biên độ này lại xoay quanh tỷ giá trung tâm là cái mà sẽ biến động, thậm chí tăng lên, hàng ngày.

Do đó, không có gì lạ khi tỷ giá trong ngân hàng và trên thị trường đã biến động (tăng) khá mạnh mà NHNN vẫn chưa có hành động can thiệp nào. Và sau đó, NHNN mới có hành động can thiệp đầu tiên là đặt ra giá bán USD tại Sở Giao dịch NHNN ở mức 22.050 VND/USD. Tuy nhiên, hành động can thiệp này diễn ra khá ngắn ngủi, kéo dài trong đôi ba ngày, với tổng số USD bán ra khoảng 2 tỷ USD. Là một con số khá nhỏ, đặc biệt so với những lần can thiệp trước đây và so với độ lớn của quỹ dự trữ ngoại hối, nên có lẽ nó chỉ mang tính biểu trưng, xoa dịu tâm lý và thăm dò thị trường là nhiều.

Trong khi đó, lãi suất đã có những biến động bất thường với việc lãi suất liên ngân hàng tăng đột ngột và mạnh liên tục trong mấy tuần qua. Chẳng hạn, lãi suất qua đêm đã nhanh chóng tăng từ dưới 1%/năm lên trên các mức 2%/năm, 3%/năm, rổi vượt 4%/năm, đạt 4,27%/năm vào ngày 26/7. Chắc chắn rằng lãi suất tăng lên mạnh như vậy đã góp phần giải tỏa phần nào áp lực lên tỷ giá, giảm gánh nặng cho NHNN phải can thiệp để không cho tỷ giá tăng sốc, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý người dân.

Nguyên nhân của đợt tăng lãi suất đột ngột và mạnh này có thể truy ngược từ thời điểm cuối tháng 6 khi Chính phủ báo cáo có khoảng 150 nghìn tỷ đồng tiền ngân sách được điều chuyển về để ở NHNN. Trước đó, đương nhiên nguồn tiền này được gửi ở các ngân hàng thương mại. Việc điều chuyển này có thể thấy rõ qua báo cáo của một số ngân hàng thương mại đã có báo cáo tài chính quý 2 như Vietcombank. Theo đó, số dư tiền gửi của Kho bạc Nhà nước đã giảm mạnh xuống còn 67,5 nghìn tỷ cuối quý 2 từ mức 127 nghìn tỷ cuối quý 1 ở ngân hàng này.

Điểm khác biệt chính giữa việc Kho bạc Nhà nước gửi tiền ngân sách ở ngân hàng thương mại với gửi ở NHNN là gửi ở NHNN thì tiền coi như bị “nhốt”, không vào lưu thông được. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm cung tiền, và, do đó, làm tăng lãi suất, đặc biệt trong 2 tuần qua. Cũng chính vì sự tăng mạnh của lãi suất liên ngân hàng như hiện nay nên có thể hiểu rằng số tiền ngân sách được điều chuyển về để ở NHNN vẫn còn nằm đó, (đa phần) chưa được chuyển trở lại Kho bạc để chi tiêu hay gửi tại các ngân hàng thương mại.

Cũng cần nói thêm là trong thời gian này NHNN cũng đã tung ra lưu thông một lượng tiền lớn thông qua lượng tín phiếu NHNN đáo hạn và qua kênh cầm cố giấy tờ có giá. Tuy nhiên lượng tiền này nhỏ hơn lượng tiền ngân sách để ở NHNN nói trên (báo cáo cho thấy số dư tín phiếu NHNN hồi đầu tháng 6 là vào khoảng 150 nghìn tỷ đồng, nhưng đã giảm mạnh xuống còn 59 nghìn tỷ đồng hồi đầu tuần trước).

Qua hành động điều chuyển tiền ngân sách ở trên, rõ ràng là đã có một bước biến chuyển rất mới trong sự phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ theo chỉ đạo của Chính phủ. Cũng là nguồn tiền đó của ngân sách, có thể đang tạm thời dư thừa do chưa giải ngân được cho các chương trình đầu tư công của Chính phủ, nhưng đã được Bộ Tài chính gửi ở NHNN thay vì gửi ở ngân hàng thương mại trong một sự phối hợp nhằm hỗ trợ ổn định tỷ giá.

Quan trọng không kém, việc điều chuyển tiền này còn có ý nghĩa là làm giảm áp lực lạm phát khi chỉ số giá tiêu dùng đã tăng mạnh trong 2 tháng qua.

Cũng cần lưu ý rằng lãi suất liên ngân hàng tăng nhanh và mạnh như trên có thể gây tác động bất lợi cho doanh nghiệp và, do đó, tăng trưởng GDP khi lãi suất huy động tiền gửi dân cư và doanh nghiệp cũng tăng lên theo lãi suất liên ngân hàng.

Tuy nhiên, do VND đã suy yếu đi đáng kể so với thời điểm đầu năm (đã mất hơn 2% giá trị so với USD) và xem ra sẽ còn tiếp tục suy yếu nếu NHNN không tích cực can thiệp thêm như đang được thấy hiện nay, nên thực chất tăng trưởng kinh tế lại được hỗ trợ bởi sự giảm giá của VND thông qua kênh thương mại (xuất khẩu tăng lên, nhập khẩu giảm đi). Do đó, về tổng thể, tác dụng tích cực đến từ sự suy yếu của VND sẽ bù trừ cho tác động tiêu cực từ việc tăng lãi suất.  

Như vậy, dường như NHNN đã chuyển sang duy trì một chính sách “trung dung” – một mặt, để tiền đồng yếu đi theo điều kiện thị trường mà không phải bận tâm can thiệp bằng mọi giá như trước đây, mặt khác (phối hợp với Bộ Tài chính) tăng lãi suất, vừa để hỗ trợ tỷ giá, vừa giảm áp lực lạm phát, đồng thời vẫn hướng đến mục tiêu là duy trì tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh có các cú sốc bên ngoài (chiến tranh thương mại và sự mạnh lên của USD).

So với những lựa chọn chính sách đã thi hành trước đây thì rõ ràng chính sách phối hợp các công cụ và các bên (Bộ Tài chính và NHNN) như thế này là phù hợp và có tính duy trì cao hơn.

Phang đồng chí TS. Hồ Quốc Tuấn và PGS. TS. Trần Ngọc Thơ về chuyện phá giá

Lâu lắm tớ mới có dịp lôi 2 đồng chí cộm cán này, Hồ Quốc Tuấn (HQT) và Trần Ngọc Thơ (TNT), ra để phang công khai trên báo chí (chứ không phải trên blog này như trước đây). 2 đồng chí này mới có bài viết tuần trước trên TBKTSG về chuyện phản đối phá giá VND. May là tớ phản hồi dưới dạng bạn đọc bình luận nên được tòa báo chấp nhận cho đăng, chứ không thì cũng không có dịp phang công khai (và nhận được hồi âm của HQT) như vậy bao giờ.

Nói thật là tớ không thể tin nổi lại có loại trí thức rởm như vậy, lại được học và dạy ở nước ngoài nữa mới kinh (HQT).

-----------------
Bài gốc của HQT:

Phá giá tiền đồng: chỉ nên 3%

Hồ Quốc Tuấn (*)
Thứ Năm,  26/7/2018, 11:26  
https://www.thesaigontimes.vn/275831/pha-gia-tien-dong-chi-nen-3-.html
(TBKTSG) - Với chiến lược công nghiệp có thể xem là thất bại trên nhiều khu vực, phá giá tiền đồng nhiều khả năng chỉ đem lại hại (gánh nặng nợ nước ngoài khi quy ra tiền đồng, lạm phát và vòng xoáy bất ổn vĩ mô) thay vì có lợi.

Trong những tuần gần đây, tranh luận về việc có nên phá giá để thúc đẩy xuất khẩu quay trở lại khi đồng tiền nhiều nước láng giềng đã mất giá đáng kể so với đồng đô la Mỹ, trong đó đáng chú ý là đồng nội tệ của một đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam là Trung Quốc đã mất giá tới 8%. Người ta nói rằng chiến tranh thương mại đang kéo theo chiến tranh tiền tệ và do đó Việt Nam có thể cũng nên hạ giá đồng nội tệ để bảo vệ mình.
Điều này không lạ khi mà từ lâu nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng Việt Nam đã than thở rằng họ khó cạnh tranh với hàng Trung Quốc và các nước láng giềng khác, trong đó có lý do... tỷ giá. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng có những doanh nghiệp Việt Nam rất sợ tiền đồng mất giá vì họ đang vay nợ bằng ngoại tệ và con số này đang lớn lên rất nhanh trong mấy năm qua.
Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu phá giá có thật giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay không, về cả lý thuyết, bằng chứng nghiên cứu ở các nước và thực tiễn Việt Nam.
Tỷ giá và tăng trưởng kinh tế: những lý thuyết mới
Theo Stiglitz và đồng sự, tỷ giá có tính cạnh tranh hay phá giá chỉ có lợi khi hàng xuất khẩu có tỷ lệ nội địa hóa (domestic contents) cao. Đây là điều kiện mà Việt Nam thiếu.
Nghiên cứu của Lane và Stracca công bố năm 2018 trên tạp chí Economic Policy cho rằng đồng tiền định giá cao có hai tác động. Một mặt, đồng tiền định giá cao làm giảm năng lực cạnh tranh và xuất khẩu, nên có hại cho tăng trưởng. Nhưng đồng thời, đồng tiền định giá cao cũng có tác động phân bổ lại nguồn lực ra khỏi khu vực sản xuất và hướng nguồn lực dồn về phía dịch vụ và các sản phẩm không xuất nhập khẩu, cũng như làm giảm giá tương đối nguyên liệu nhập khẩu, tăng thu nhập thực và do đó thúc đẩy chi tiêu.
Vì vậy, khác với lý thuyết truyền thống chỉ nhìn vào năng lực cạnh tranh, khi nhìn vào tổng thể nền kinh tế, một đồng tiền định giá cao tương đối vẫn có thể thúc đẩy tăng trưởng trong trung hạn. Lane và Stracca tìm thấy kết quả là đồng tiền định giá cao tương đối có giúp ích cho một số nước của liên hiệp châu Âu trong giai đoạn đầu đồng euro lên giá.
Những nghiên cứu này cho thấy không có bằng chứng rõ ràng là đồng tiền định giá cao hay thấp sẽ thúc đẩy tăng trưởng trong trung hay dài hạn vì hai tác động trái ngược: một mặt đồng nội tệ cao giá làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, một mặt làm tăng thu nhập thực tương đối của người dân và tạo thuận lợi cho tăng trưởng nhờ tăng tổng cầu và đẩy lĩnh vực dịch vụ phát triển.
Năm 2018, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Joseph Stiglitz cùng với cộng sự đăng một bài nghiên cứu thu hút nhiều chú ý trên World Development, với vài quan điểm khá mới:
(1) Chính sách tỷ giá thực phải đi theo hướng ổn định và có tính cạnh tranh (có điều kiện).
(2) Chính sách tỷ giá thực (RER) phải đi đôi với chiến lược phát triển công nghiệp. Về chiến lược phát triển công nghiệp ở Việt Nam các chuyên gia như Giáo sư Trần Văn Thọ và Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh đã nói rất nhiều. Nhưng những thảo luận về mối liên kết chính sách tỷ giá thực-chiến lược công nghiệp hình như còn thiếu.
Vậy phải chăng lý thuyết mới của Stiglitz ủng hộ phá giá để thỏa mãn tính chất “có tính cạnh tranh”? Không hoàn toàn như vậy, vì tính cạnh tranh trong mô hình của Stiglitz là “có điều kiện”.
Theo Stiglitz và đồng sự, tỷ giá có tính cạnh tranh (đồng nội tệ rẻ tương đối) có một vài phản ứng phụ. Trong đó có những điều mà nhiều chuyên gia trong nước đã nói đến, đó là tăng chi phí nhập khẩu vốn (nợ, máy móc) và hàng hóa. Lấy ví dụ trường hợp của Việt Nam, chuyên gia Bùi Trinh đã có tính toán rằng, tiền đồng mất giá 2% sẽ khiến chi phí trung gian chung của nền kinh tế tăng lên do giá trị nhập khẩu tăng và chỉ số giá sản xuất (PPI) ở chu kỳ đầu tiên tăng lên 0,45%, chu kỳ sản xuất tiếp theo tăng lên 0,65%, tổng ảnh hưởng 1,1% và tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế có thể bị giảm 1,2-1,6%.
Stiglitz còn đề cập đến nghiên cứu của Blaum (2017) cho thấy bằng chứng là khi phá giá thì giai đoạn đầu nhập siêu còn mạnh hơn và sẽ tạo vòng xoáy tiếp tục tạo áp lực mất giá đồng tiền (nghĩa là phá giá 2-3% có thể dẫn đến mất giá 6-7%).
Ngoài ra, phá giá cũng làm cho lạm phát tăng, sức mua của người trong nước giảm, người nghèo thiệt hại nhiều hơn người giàu vì gói hàng hóa tiêu dùng cơ bản của người nghèo bị ảnh hưởng của lạm phát rất mạnh.
Vì vậy, theo Stiglitz và đồng sự, tỷ giá có tính cạnh tranh hay phá giá chỉ có lợi khi hàng xuất khẩu có tỷ lệ nội địa hóa (domestic contents) cao. Đây là điều mà Việt Nam thiếu (và bản thân nó quay lại liên quan đến chính sách công nghiệp). Với Việt Nam, hiện không phải là thời điểm tốt để áp dụng giải pháp phá giá nhằm đạt được tỷ giá thực có tính cạnh tranh như trong mô hình của Stiglitz, vì thiếu điều kiện cần để nó có lợi, nhưng lại thừa điều kiện đủ để cái hại phát huy.
Trong khi đó, duy trì tỷ giá ổn định thì có lợi vì nó tạo ổn định vĩ mô, giảm bất ổn nên tăng đầu tư. Điều này gần với thực tế là nhà đầu tư quốc tế ngại đầu tư vào một nước nếu ổn định vĩ mô của nó thấp. Điều đó cũng hàm ý là không thể đột ngột phá giá mạnh một đồng tiền từ mức không cạnh tranh sang mức cạnh tranh, vì nó vi phạm nguyên tắc ổn định.
Thử vận dụng vào chính sách tỷ giá của Việt Nam
Nếu đi theo hướng tỷ giá ổn định và có tính cạnh tranh của Stiglitz, theo cách hiểu của bản thân người viết, để đạt tiêu chí ổn định, tỷ giá không nên biến động quá mạnh (như kiểu đồng nhân dân tệ của Trung Quốc mất giá 8% thì mình cũng phá giá tiền đồng 8% theo). Đồng tiền của Việt Nam về cơ bản vẫn là định giá cao theo các tính toán tỷ giá thực, do đó để đảm bảo một tỷ giá thực có tính cạnh tranh thì ta vẫn cần để nó mất giá so với đô la Mỹ. Tuy nhiên, phá giá mạnh sẽ gây sốc hơn là giúp ích và vi phạm tính ổn định của mô hình mà Stiglitz đề xuất. Sự mất ổn định sẽ dẫn đến các chi phí dễ thấy là nguy cơ vỡ nợ các khoản nợ vay nước ngoài của các doanh nghiệp, tăng gánh nặng nguồn thu bằng tiền đồng cho ngân sách và tăng lạm phát.
Do đó, trong điều kiện cho phép, Việt Nam nên duy trì tốc độ trượt giá tiền đồng ở mức vừa phải, từ 3% trở lại, nếu điều kiện thị trường và năng lực của Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ (nếu giữ không nổi thì buộc phải “thả” ra theo thị trường vì cố giữ quá sức thì rồi cũng phải phá giá mạnh, cũng vi phạm nguyên tắc ổn định).
Vì sao chỉ nên phá giá tiền đồng trong phạm vi 3% mà không ít hơn hay nhiều hơn? Vì nếu mỗi năm trượt giá 3% thì trong 10 năm, đồng tiền của Việt Nam cũng đã mất giá gần 30%, là một mức không hề thấp và đã tiệm cận đến giới hạn bị một số mô hình chấm điểm rủi ro quốc gia (chẳng hạn mô hình của EIU) xếp vào hàng rủi ro tỷ giá cao. Những mô hình này có tầm quan trọng trong việc xác định lãi suất cho vay trên thị trường quốc tế đối với trái phiếu do Việt Nam phát hành cũng như dẫn dắt dòng tiền đầu tư quốc tế vào Việt Nam (nhiều quỹ đầu tư sẽ ngần ngại đầu tư vào một nước nếu điểm rủi ro quốc gia cao hơn một mức cụ thể nào đó).
Về dài hạn, muốn việc hạ giá tiền đồng (tuần tự, không gây sốc) mang lại lợi ích nhiều hơn tổn hại thì phải thực thi một chiến lược công nghiệp chỉn chu và nghiêm túc, cải thiện môi trường kinh doanh, giúp doanh nghiệp Việt làm thương hiệu cho ổn. Lúc đó việc trượt tỷ giá mỗi năm so với đô la Mỹ mới thúc đẩy được xuất khẩu và tạo được tăng trưởng nhanh bù lại rủi ro do đồng tiền mất giá. 
----------------------
Tớ phang HQT lần 1:
Đề nghị tác giả bình luận về một ví dụ cơ bản sau đây:
Giả sử doanh nghiệp VN sản xuất và xuất khẩu áo sơ mi với giá thành là 90 USD và giá xuất 100 USD, mang lại lợi nhuận là 100-90=10 USD.
Giả sử doanh nghiệp này phải nhập khẩu 80 USD nguyên liệu, phụ liệu để làm ra cái áo này (một tỷ lệ nhập rất cao phải không?). Như vậy, hàm lượng giá trị đóng góp trong nước vào giá thành là 10 USD, tương đương với 220.000 VND (giả sử tỷ giá là 22.000 VND/USD cho dễ tính).
Khi VND bị phá giá 10% và tỷ giá thành 22.000*1.1=24.200. Doanh nghiệp vẫn chỉ trả cho phần đóng góp nội địa là 220.000 đồng/áo, tức chỉ còn tương đương 220.000/24.200=9,1 USD (làm tròn). Trong khi đó, giá trị phần nhập khẩu nguyên phụ liệu tính bằng USD vẫn là 80 USD, và giá xuất vẫn là 100 USD, không thay đổi sau khi VND bị phá giá.
Lúc này, lợi nhuận mới sẽ là 100-80-9,1=10,9 USD, tức là lớn hơn lúc VND chưa bị phá giá (10 USD).
Điều trên có nghĩa là dù hàm lượng nhập khẩu có cao bao nhiêu, trong nước có thấp bao nhiêu (miễn là >0) thì khi phá giá bản tệ, nhà xuất khẩu vẫn được lợi phải không?
Suy rộng ra cho cả nền kinh tế, xuất khẩu cả nước vẫn được lợi, còn nhâp khẩu thì giảm đi phải không?
Cần lưu ý một luận điểm sai của nhiều người và của cả tác giả là khi phá giá thì làm tăng chi phí nhập khẩu. Điều này sai vì chi phí nhập khẩu KHÔNG THAY ĐỔI nếu tính theo USD (chỉ tăng lên nếu tính theo VND), và do đó, như trong ví dụ trên, dù phá giá bao nhiêu, nếu giá nhập bằng USD và giá xuất không đổi thì nhà xuất khẩu vẫn có lợi hơn.
Đối chiếu ví dụ trên thì tác giả thấy lập luận của Stiglitz và những người phản đối phá giá như tác giả (với lý do phá giá không có lợi khi mức độ phụ thuộc nhập khẩu quá lớn) có còn đúng nữa không? Còn về lời khuyên chỉ nên phá giá dưới 3%/năm của tác giả, trước hết, điều này có nghĩa là tác giả cũng đã phải đồng ý về tác động tích cực của phá giá (trực tiếp và gián tiếp) phải không?
Vậy thì câu trả lời cho câu hỏi của tòa soạn "Có nên phá giá hay không?" cần phải là YES phải không?
Tiếp theo, lý do chỉ phá giá <3%/năm để không tiệm cận giới hạn chấm điểm của thế giới xem ra không thỏa đáng, một phần vì trong 10 năm thì mức phá giá gộp phải lớn hơn 30%, tức đã vi phạm nguyên tắc/khuyến nghị này của tác giả. Hơn nữa, nếu VND chịu áp lưc phá giá lớn mà NHNN cố gắng không phá ở mức độ đủ lớn (<3%/năm) thì rốt cuộc NHNN phải làm gì, như thế nào để tỷ giá không bị quá "nén" nên sẽ "bung" ra khi không kiểm soát được?
Giữa phá giá đủ liều lượng với phá giá "cầm chừng" như tác giả khuyến nghị thì cái nào ít rủi ro hơn, ít bị thế giới "soi", đánh giá tiêu cực hơn?
---------------------
HQT phang lại bài phang lần 1 của tớ:
 Cám ơn bạn đã có phản hồi. Bên dưới là các trao đổi của mình.
1. Ví dụ của bạn có thể sẽ khác đi nếu giả định đóng góp nội địa không đổi khi VND mất giá 10% được gỡ ra. Nếu VND mất giá 10% đẩy chi phí kinh doanh lên (chi phí vận tải nội địa, chi phí do chuỗi cung ứng bị đội lên từ những công ty chuyên nhập khẩu khác mà không có xuất khẩu trong chuỗi cung ứng).
Kết quả là số nhân chi phí trong chuỗi cung ứng có thể đẩy chi phí lên nhanh hơn với mức mất giá của VND (chẳng hạn chi phí do tăng giá xăng dầu, điện, chi phí lương, chi phí kinh doanh gián tiếp). Nếu VND mất giá 10% đẩy chi phí nội địa lên 12%, bài toán sẽ là: giá thành đóng góp nội địa 220.000*1.12/24200 = 10,18 USD.
Vậy, tổng lợi nhuận mới là 100 – 80 – 10,18 = 9,2 USD chứ không phải 10,9 USD như bạn tính, thấp hơn mức 10 USD ban đầu.
Chuỗi cung ứng của Việt Nam có rất nhiều cấu thành nhập khẩu thuần túy, ngoài ra đồng tiền mất giá mạnh nhiều khả năng sẽ đẩy lạm phát lên và đẩy chi phí kinh doanh tăng cho cả doanh nghiệp xuất khẩu và toàn nền kinh tế. Cho nên hiểu domestic contents trong mô hình của Stiglitz nên là vậy chứ không phải đơn thuần là cấu thành domestic contents của 1 sản phẩm xuất khẩu đơn nhất.
2. Cho dù giả sử chi phí của doanh nghiệp xuất khẩu mà bạn nói được giữ nguyên hay tăng thấp hơn mức mất giá VND, và doanh nghiệp xuất khẩu đạt được lợi nhuận tăng lên theo USD, tính tổng nền kinh tế Việt Nam thì vẫn có thể thiệt hại.
Chuyên gia Bùi Trinh đã có tính toán rằng, VND mất giá 2% sẽ khiến chi phí trung gian chung của nền kinh tế tăng lên do giá trị nhập khẩu tăng và chỉ số giá sản xuất (PPI) ở chu kỳ đầu tiên tăng lên 0,45%, chu kỳ sản xuất tiếp theo tăng lên 0,65%, tổng ảnh hưởng 1,1% và tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế có thể bị giảm 1,2 - 1,6%.
Như vậy, phá giá nội tệ có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm GDP, chứ không phải là tăng. Đó là chưa kể các doanh nghiệp vay nợ bằng USD sẽ bị lỗ tỷ giá. Về thực tế, bạn có thể tham khảo như bài viết ở đây “Doanh nghiệp buồn vui cùng tỷ giá nửa đầu năm” ndh.vn/doanh-nghiep-buon-vui-cung-ty-gia-nua-dau-nam-20180726120811283p4c147.news
Vì vậy tổng được-mất của cả nền kinh tế không thể được đem đơn giản hóa quá mức vào một mô hình của 1 chiếc áo, rất là dễ dẫn đến sai lầm.
Bài toán phá giá ở đây vì vậy là cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp xuất khẩu và thiệt hại chung của cả nền kinh tế (chủ yếu do lạm phát đẩy chi phí chung của nền kinh tế và nợ nước ngoài- cả tư nhân và công). Với giá trị gia tăng xuất khẩu thấp, nợ lớn, nhập khẩu khó thay thế, lợi ích của bài toán này nhiều khả năng là số âm như tính toán của anh Bùi Trinh.
Do đó mới có chuyện mối quan hệ giữa phá giá và tăng trưởng phụ thuộc vào tỷ lệ nội địa hóa của hàng hóa-dịch vụ giao dịch được trong nền kinh tế. Bạn có thể không đồng tình với tính toán này của anh Bùi Trinh, nhưng bạn cần đưa ra một ước tính của bạn để khẳng định lợi ích tổng cho nền kinh tế là tốt hơn.
3. Kết luận này của bạn “Suy rộng ra cho cả nền kinh tế, xuất khẩu cả nước vẫn được lợi, còn nhâp khẩu thì giảm đi phải không?” là không chắc chắn.
Đơn giản là nếu nhập khẩu vẫn phải bắt buộc nhập (như máy móc thiết bị, thuốc chữa bệnh) thì bạn phá giá bao nhiêu, người ta vẫn phải nhập về sản xuất và tiêu dùng nếu trong nước không có hàng thay thế tương đồng, nghĩa là nhập khẩu có thể còn tăng nhanh hơn xuất khẩu.
Đó là lý do một số nghiên cứu định lượng thấy rằng phá giá làm tăng thâm hụt thương mại. Chính vì vậy, phá giá chỉ có lợi nếu các ngành công nghiệp trong nước có khả năng thay thế xuất khẩu.
4. Dù là mình không đồng ý với ví dụ và kết luận của bạn như đã nói ở trên (do những giả định ngầm trong đó), mình vẫn tán thành phải để VND trượt giá trong một biên độ không gây sốc như 3%/năm vì theo mô hình của Stiglitz là cần cả hai nhân tố tỷ giá ổn định và có tính cạnh tranh.
VND vẫn định giá cao theo RER nên phá giá (hay nên gọi là trượt giá ổn định) mỗi năm là hợp lý. Vấn đề khác biệt ở đây giữa quan điểm của mình với bạn là giữa phá giá sốc để không bị mất sức cạnh tranh với Trung Quốc và các nước láng giềng (hay phá giá khoảng 9% như 2011 ở ta) và phá giá trong một biên độ ổn định (chẳng hạn 3% như mình đề xuất).
Vấn đề ở đây là NHNN có nội lực và công cụ đến đâu. Tỷ giá chỉ là phần nổi của tảng băng. Phần chìm là nội lực của Việt Nam hiện tại, dòng vốn, dự trữ ngoại hối và dư địa chính sách. Nếu NHNN giữ không nổi tỷ giá so với thị trường (nghĩa là chênh lệch thị trường tự do và chính thức quá lớn) thì phải thả ra, thay vì để “ứ máu” lại quá mức rồi nhả một lần 8,5% như 2011 là không tốt (và cũng vi phạm nguyên tắc ổn định). Nhưng trong điều kiện hiện tại, chúng ta đâu đã khó khăn như giai đoạn đó (lạm phát 2 con số), áp lực rút vốn, v.v.
Vì vậy, vấn đề là NHNN không cần “buông súng” quá sớm, phá giá theo qui mô mất giá đồng tiền của Trung Quốc ngay một lần. Nếu phá giá mạnh một lần thì bao nhiêu sẽ là đủ, và liệu nó có đẩy tâm lý găm giữ USD và kỳ vọng lạm phát lên hay không cũng là một câu hỏi? Quan trọng là chỉ cần NHNN bỏ qua quan điểm ổn định tỷ giá và gửi tín hiệu cho truyền thông là đi theo hướng phá giá mạnh, niềm tin của người dân vào VND sẽ mất đi nhanh chóng. NHNN vẫn còn công cụ lãi suất.
Tăng lãi suất VND lên đồng thời bán ngoại tệ can thiệp khi cần vẫn đủ khả năng cầm cự để quan sát cục diện mất giá đồng tiền của các nước khác.
Ngoài ra, không có ai bắt buộc NHNN phải chiến đấu một mình. DN xuất khẩu gặp khó thì hoàn toàn có thể được hỗ trợ về thuế, lãi suất vay ưu đãi. Đây là lợi ích của chính sách tài khóa và tiền tệ kết hợp.
Không nên chỉ nghĩ mình chỉ có một vài công cụ tiền tệ để rồi khóa chặt mình trong cái khuôn khổ đó. Việc đồng tiền các nước mất giá mạnh không phải do họ muốn phá giá mà là do vốn rút ra và do tiền chạy vào đồng USD (carry trade hoặc flight to quality).
Trong bối cảnh hiện tại, chưa có dấu hiệu gì là Việt Nam xấu như giai đoạn 2011, và cũng không bị rút chạy vốn như Trung Quốc.
Vì vậy, mình cho rằng không có gì phải vội vã nghĩ tới phá giá mạnh vào lúc này khi dư địa chính sách về lãi suất, dự trữ ngoại hối và tài khóa vẫn còn.
Trân trọng, Hồ Quốc Tuấn
----------------------------------
Tớ phang HQT lần 2: (các mục 1, 2, 3, 4 là theo trình tự trong bài phang tớ của HQT bên trên)
1a. Xin lưu ý với tác giả rằng nếu nói đến mô hình và giả định thì phải nói đến cái gì xác thực, hợp lý và hoàn toàn có thể xảy ra trên thực tế. Giả định của tác giả rằng VND mất giá 10% thì chi phí nội địa tăng lên 12% (hoặc một con số cụ thể nào đó) là một điều hoàn toàn không chắc chắn, không xác thực, không được kiểm chứng nên không thể giả định như vậy được. Ngay bản thân kết quả tính toán của Bùi Trinh được trích dẫn trong bài cũng chỉ nói rằng VND mất giá 2% thì tổng ảnh hưởng (tổng mức tăng chi phí) là 1,1%.
1b. Việc trích dẫn những tính toán như của Bùi Trinh cần phải hết sức thận trọng bởi đơn giản rằng những tính toán này chưa/không được xác thực, kiểm chứng bởi bất kỳ tổ chức có uy tín nào (ví dụ, thông qua việc đăng trên các tạp chi học thuật nghiêm túc quốc tế). Nếu muốn, tôi cũng có thể nói rằng theo tính toán của riêng tôi thì phá giá VND không làm tăng đáng kể chi phí trong nước!!!
Tác giả đang giảng dạy và nghiên cứu nên (cần) biết rõ nguyên tắc này.
1c. Dù đã lưu ý với tác giả như ở trên, nhưng ở đây ta hãy chấp nhận giả định trên của tác giả và hãy cùng tính tiếp bài toán phá giá và chi phí như sau.
Do nhà xuất khẩu là một doanh nghiệp (ở) Việt Nam nên họ phải hạch toán bằng VND phải không? Nói cách khác, với họ (và quan trọng là), lỗ lãi phải được thể hiện bằng VND phải không? Giả sử chấp nhận giả định của tác giả rằng khi VND bị mất 10% giá, chi phí tăng lên 12%, làm chi phí nội địa đóng góp vào giá thành áo sơ mi tăng lên thành 220.000*1.12=246.400 VND. Phần chênh lệch giá xuất khẩu với chi phí nhập khẩu là 100-80=20 USD, tương đương 20*24.200=484.000 VND theo tỷ giá mới. Trừ đi chi phí nội địa 246.400 VND, mỗi chiếc áo sơ mi sẽ có lợi nhuận là 484.000-246.400=237.600 VND.
Mức này vẫn lớn hơn mức lợi nhuận khi chưa phá giá (22.000*10=220.000VND) phải không? Nói cách khác, phá giá vẫn làm lợi cho nhà xuất khẩu phải không?
2a. Nền kinh tế Việt Nam vẫn thiệt hại là thiệt hại ở khía cạnh gì? Chi phí trong nước tăng lên nhưng là tính bằng VND, giá xuất khẩu vẫn thu được là 100 USD, tức là về tổng thể Việt Nam vẫn thu được 100 USD từ nước ngoài chứ không sứt mẻ một xu nào. Nhập khẩu vẫn giữ nguyên là 80 USD chứ không tăng thêm một xu nào. Nếu tác giả và Bùi Trinh cho rằng PPI (hay CPI hay bất cứ một chỉ số giá cả nào) tăng lên là một thiệt hại cho nền kinh tế thì các tác giả hãy xem lại lý thuyết nhé. Bởi, xin nói đơn giản, chi phí (trung gian, bằng VND) tăng lên nhưng giá bán (giá xuất) tính theo VND cũng tăng lên, và còn tăng lên mạnh hơn, mang lại lợi nhuận cao hơn, như được thể hiện ở ví dụ trên.
Cũng lưu ý tác giả và Bùi Trinh rằng GDP được tính theo giá cố định (đã loại trừ lạm phát, hoặc chỉ số giảm phát) nên không thể nói rằng khi PPI (CPI) tăng lên thì GDP giảm. Và cũng xin lặp lại một lần nữa là tác giả cần hết sức thận trọng, tránh trích dẫn những kết quả nghiên cứu không được kiểm chứng, xác thực.
2b. Doanh nghiệp vay nợ bằng USD đúng là sẽ bị lỗ tỷ giá, đây là một thực tế không phải tranh cãi. Tuy nhiên, trước tiên cần lưu ý nợ nước ngoài bằng ngoại tệ KHÔNG THAY ĐỔI dù VND có bị phá giá. Tiếp theo, tác giả có đồng ý là để ổn định tỷ giá thì toàn bộ nền kinh tế phải trả giá (hoặc là bằng hao hụt dự trữ ngoại tệ, và/hoặc lãi suất phải tăng v.v…) không?
Vậy điều này có khác gì ngân sách/Chính phủ và dân chúng phải gián tiếp gánh chịu lỗ tỷ giá nếu có cho doanh nghiệp phải không? Vậy thì lý do không phá giá để gánh nặng nợ nước ngoài của doanh nghiệp không tăng lên có còn hợp lý không?
2c. Đúng là tổng được - mất của cả nền kinh tế không thể thể hiện hết qua ví dụ chiếc áo trên, nhưng, ngược lại, tác giả cũng không thể chứng minh rằng phá giá (nhiều) là có hại về tổng thể qua những con số rất đáng ngờ và những lập luận chắp vá, chủ quan, cảm tính, thiếu cơ sở, gồm, ví dụ, về nợ nước ngoài, về tác động của PPI lên GDP v.v…
3. Đúng là sẽ có một phần nhập khẩu không thể thay thế, nhưng, trước hết, như nói ở ví dụ của chiếc áo, nhập khẩu không tăng nếu tính theo USD, (xuất khẩu cũng không tăng lên theo USD), trong khi chênh lệch xuất khẩu – nhập khẩu lại tăng lên nếu tính theo VND. Thứ nữa, đề nghị tác giả giải thích tại sao nhập khẩu lại tăng nhanh xuất khẩu (khi phá giá)?
Nếu phá giá làm tăng thâm hụt thương mại như tác giả nói/trích dẫn, xin hỏi tác giả tại sao lý thuyết kinh tế vẫn cứ nói là phá giá sẽ làm giảm thâm hụt thương mại? Và tại sao lý thuyết này (trong sách giáo khoa) không được sửa lại cho đúng như ý của tác giả?
Tại sao các nước vẫn cứ dùng phá giá/duy trì bản tệ yếu để giảm thâm hụt thương mại? Và tại sao rốt cuộc tác giả cũng phải đồng ý cần/nên phá giá (dù chỉ ở mức <3%)?
4a. Tôi không đề xuất hay ủng hộ phá giá sốc như tác giả nói. Điều đáng nói ở đây là tác giả đã thừa nhận/tán thành phá giá VND, thế là đủ (cho cuộc trao đổi này và cho tòa soạn có câu trả lời cụ thể về có nên phá giá không).
Lưu ý rằng tác giả là người từng phản đối phá giá (xem bài, ví dụ, “Tỷ giá và chiếc tăm tre” ở TBKTSG vài năm trước đây), nên tôi ghi nhận sự thay đổi lập trường tích cực của tác giả.
Cần lưu ý thêm là nếu tác giả tự tính được RER của VND, và theo lập luận của tác giả thì có lẽ phá giá VND <3% là hoàn toàn không đủ, vẫn làm tỷ giá bị “nén”, để rồi sớm muộn sẽ “bung” bởi nội lực của NHNN, như tác giả đã nêu.
4b. Đã có những bằng chứng rõ ràng rằng NHNN đã bỏ quan niệm phải ổn định tỷ giá nên vấn đề không còn nằm ở NHNN nữa mà là ở nhiều người khi họ vẫn còn đang phản đối phá giá. Tiếc là không phải ai cũng (chịu) thay đổi quan niệm giống như tác giả về chuyện phá giá này.
4c. Nếu nói về lợi hại của các lựa chọn, thay vì phá giá đủ liều lượng (tôi nhấn mạnh; cơ sở của liều lượng này có thể là RER), tác giả lại kiến nghị tăng lãi suất, nên tác giả cần phải chứng minh lại từ đầu rằng về tổng thể tăng lãi suất sẽ không gây hại (lớn hơn) cho nền kinh tế (nếu so với phá giá).
Nếu không chứng minh được như vậy thì lập luận tiêu cực về lựa chọn phá giá của tác giả cũng như của những người như Bùi Trinh là không phù hợp, xác đáng. Xin dừng ở đây, cảm ơn tác giả và tòa soạn đã cho đăng ý kiến phản biện này.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Bài gốc của Trần Ngọc Thơ có ở link này, tớ không muốn đăng lại vì thấy không đáng, dù chỉ là để tiện phang.
https://www.thesaigontimes.vn/275832/khong-the-pha-gia-tien-dong-.html
Phần dưới đây là bài phang của tớ với TNT, ngắn vì một phần quan trọng bài của TNT có nội dung trùng với của HQT nên phang HQT cũng là phang TNT rồi, khỏi nhắc lại cho phí công.
---------------------
Tác giả nói sai về logic. Phá giá cũng là một lựa chọn như các lựa chọn khác mà tác giả nêu ra (ví dụ cải cách thể chế), vậy tại sao cứ phải lựa chọn những giải pháp khác mà không phải là phá giá?
Hơn nữa và điều quan trọng là, các giải pháp khác đều đã và đang thực hiện (và thực hiện một cách chật vật, khó khăn, không còn nhiều room) chứ không phải là không được thực hiện để tác giả phải khuyến nghị thực hiện chúng thay cho phá giá.
Hỏi ngược lại tác giả một câu hỏi căn bản và đơn giản: Nếu không phá giá (không chịu điều chỉnh tỷ giá tăng lên) thì NHNN cần phải làm gì để ổn định tỷ giá?
Điều tôi thấy lạ là những người phản đối phá giá thì thường không vạch ra được một liệu pháp/lộ trình chống phá giá/ổn định tỷ giá thế nào cho hữu hiệu.
Nên nói thì dễ nhưng để luận điểm của mình có chỗ đứng mới là khó.
Xin bàn cụ thể thêm, để ổn định tỷ giá thì NHNN phải bán ngoại tệ can thiệp ư? Hay còn biện pháp gì nữa mà NHNN chưa thực hiện? Liệu sự ổn định này kéo dài được bao lâu và nếu không giữ được thì kết cục thế nào?




Tuesday 24 July 2018

Giảm giá VND: Không quá đáng sợ! (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 25/7/2018, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

https://doanhnhansaigon.vn/van-de/giam-gia-vnd-khong-qua-dang-so-1086907.html

Tỷ giá VND/USD đã và đang tăng liên tục, đặc biệt sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ngừng bán USD với giá rẻ để can thiệp thị trường hôm 23/7. Như vậy, xem ra sự tăng tỷ giá là xu thế không thể đảo ngược ít nhất từ nay cho đến cuối năm, nhất là nếu cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tiếp tục leo thang, Trung Quốc khơi mào chiến tranh tiền tệ, trong khi Fed sẽ tiếp tục nâng lãi suất để kiềm chế lạm phát ở Mỹ trong phần còn lại của năm nay.


Trước bối cảnh này, vẫn có nhiều ý kiến trái chiều về việc chủ động hoặc thụ động phá giá VND, để VND yếu đi so với USD. Luồng ý kiến này chủ yếu dựa trên quan ngại tỷ giá là một vấn đề nhạy cảm ở Việt Nam, và phá giá sẽ có ảnh hưởng tiêu cực lên luồng vốn FDI vào Việt Nam, gia tăng áp lực lạm phát, tăng độ bất định trong điều hành chính sách tiền tệ/tỷ giá có thể dẫn đến những phản ứng quá mức của nhà đầu tư, càng gây thêm áp lực mất giá với VND.

Nhìn bao quát, chưa bàn đến chuyện đúng sai về 2 luồng ý kiến phản đối và ủng hộ việc phá giá, có thể thấy việc can thiệp để đảo ngược hoặc ngăn ngừa xu hướng mất giá VND ở Việt Nam sẽ gây tổn thất lớn cho NHNN. Như đã biết, trong tuần trước, NHNN đã bán ra khoảng 2 tỷ USD (riêng ngày 20/7 là 300 triệu USD) (1). Mặc dù vậy, tỷ giá trong ngân hàng và trên thị trường tự do chưa có dấu hiệu lắng dịu, thậm chí vẫn còn âm ỷ tăng.

Đáng nói là cứ với cái đà can thiệp như vậy thì chắc chắn hàng chục tỷ USD trong quỹ dự trữ ngoại hối sẽ nhanh chóng “bốc hơi” mà không mang lại kết quả như ý muốn. Bởi, việc can thiệp như vậy cũng chỉ có tác dụng làm chậm lại, làm giảm áp lực mất giá VND chứ không giải quyết được yếu tố căn bản nâng đỡ tỷ giá, vốn đang rất không thuận cho VND, một phần như nói qua ở trên.

Do đó, sự ngừng bán USD với giá rẻ của NHNN hôm 23/7 là một điều dễ hiểu và hoàn toàn hợp lý. Vấn đề đặt ra từ đây cho luồng ý kiến phản đối phá giá VND là, vậy nếu NHNN không bán USD giá rẻ để can thiệp nữa thì ai và sẽ phải làm gì để ngăn chặn xu hướng mất giá này?

Đáng tiếc là chúng ta chỉ mới nghe nhiều về lập luận phản đối phá giá mà hầu như chưa nghe thấy biện pháp, công cụ gì để ổn định tỷ giá, không phải phá giá, ngoài chuyện bán USD can thiệp của NHNN. Một số biện pháp khác có thể có tác dụng như hạ lãi suất tiền gửi USD, thắt chặt điều kiện mua, mang ngoại tệ ra nước ngoài, vay ngoại tệ, kết hối v.v… thì cũng đã và đang được thực hiện, hầu như không còn thêm room để phát huy một cách có hiệu quả hơn nữa. Đó là chưa kể những biện pháp này (chủ yếu mang tính hành chính) ít nhiều đều có tác động tiêu cực lên nền kinh tế nói chung.

Riêng biện pháp nâng lãi suất để bảo vệ tỷ giá thì hầu như không được đề cập đến, có lẽ bởi biện pháp này được coi là nhạy cảm, khó thực hiện trong bối cảnh NHNN và hệ thống ngân hàng đang phải phấn đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, có thể khái quát lại rằng việc phá giá VND (hay để VND yếu đi) là một điều không thể tránh được. Nói cách khác, làm ngược lại là điều không tưởng, không có lợi, không nên và… không thể! Vậy thì tốt nhất là hãy chọn cách làm ít thiệt hại nhất mà lại dễ thực hiện nhất là để VND yếu đi theo đòi hỏi của thị trường.

Tất nhiên là để VND yếu đi sẽ gây ra những tác hại theo lý thuyết là làm tăng áp lực lạm phát và giảm luồng vốn FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế những tác hại này không nhất thiết xảy ra đúng như vậy.

Cụ thể, về tác động của phá giá lên lạm phát, hãy cùng xem mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam trong thời gian chục năm qua như trong đồ thị dưới đây.

Lạm phát và tỷ giá bình quân từ 2007 đến 2018


Theo lý thuyết và theo lập luận của những người phản đối phá giá VND, nếu VND yếu đi thì lạm phát sẽ tăng lên, và ngược lại. Tuy nhiên, trên thực tế, đồ thị trên cho thấy 2 đại lượng này không vận động theo hướng như vậy trong nhiều thời điểm ở Việt Nam.

Ví dụ, trong các năm 2008, 2009, 2013, và 2015, tỷ giá tăng nhưng lạm phát lại giảm đi (tăng trưởng ở mức âm). Ngược lại, trong các năm 2010 và 2016, tỷ giá giảm nhưng lạm phát lại tăng lên.

Sẽ có người lập luận rằng ngoài tỷ giá còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát như lạm phát của thế giới, điều hành chính sách giá của Chính phủ, và tốc độ tăng cung tiền của NHNN v.v… nên không thể chỉ dựa vào biến động của tỷ giá để giải thích/dự đoán xu hướng của lạm phát.

Lập luận trên là hoàn toàn đúng. Nhưng nếu vậy, với cùng với logic này thì không thể chỉ dựa vào mỗi một yếu tố, ví dụ, tỷ giá để cho rằng khi phá giá VND thì lạm phát sẽ tăng lên. Cũng tương tự như vậy, không thể chỉ dựa vào mỗi tỷ giá để phân tích xu hướng FDI rồi kết luận rằng phá giá VND sẽ làm giảm FDI vào Việt Nam, và từ đây suy ra rằng do FDI suy giảm nên tăng trưởng GDP cũng bị suy giảm trong những năm trước. Cung cách phân tích kiểu này sẽ tạo ra những kết quả sai lệch, những kết luận thiên kiến và phiến diện.

Tóm lại, trong hoàn cảnh nguồn lực can thiệp mỏng, các biện pháp can thiệp có giới hạn, cũng như sự tồn tại không hiển nhiên của mối quan hệ giữa phá giá với gia tăng lạm phát hay sụt giảm FDI, thì việc để VND yếu đi thuận theo điều kiện của thị trường là điều cần thiết và nên làm.    

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).