Thursday 30 August 2018

Nên tăng vốn cho nhóm "Big4" ngân hàng như thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 31/8/2018)

http://cafef.vn/nen-tang-von-cho-nhom-big4-ngan-hang-nhu-the-nao-20180831091412071.chn

Mới đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại tiếp tục kiến nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội để sửa đổi bổ sung theo hướng cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) có vốn Nhà nước được đưa vào danh mục đầu tư công trung hạn. Cùng đó, các bộ ngành liên quan được kiến nghị bố trí nguồn để NHTM có thể tăng vốn sau khi được phê duyệt.
Mục đích tăng vốn
Một trong những mục đích chủ yếu của việc tăng vốn của các NHTM có vốn của nhà nước được cho là để đáp ứng tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (CAR) vốn đã tụt giảm xuống gần chạm ngưỡng hiện hành là 9%. Nếu theo tiêu chuẩn Basel II thì càng cần phải nâng vốn lên thậm chí gấp đôi hiện nay mới đạt tiêu chuẩn. Tăng vốn cũng là để mở rộng phạm vi tăng trưởng tín dụng bởi hạn mức tín dụng của cả ngân hàng nói chung và của ngân hàng cho từng khách hàng nói riêng phụ thuộc trước hết vào mức độ vốn tự có của ngân hàng.
Tuy nhiên, những lý do trên mới chỉ là xuất phát từ góc độ của từng NHTM. Ở góc độ quản lý nhà nước, NHNN nên/cần buộc các NHTM có vốn nhà nước phải tăng cường vốn tự có của họ, nhằm mục đích đảm bảo an toàn hệ thống.
Cụ thể, với tư cách là những ngân hàng có tầm quan trọng mang tính chiến lược, các NHTM có vốn nhà nước không chỉ là một công cụ chính sách thông qua đó NHNN điều tiết hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, mà còn đóng vai trò là bệ đỡ giảm sốc cho hệ thống mỗi khi phải đối mặt với các cú sốc bên trong và bên ngoài. Chuyện NHNN "huy động" một số NHTM có vốn nhà nước tham gia tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém là một minh chứng rõ cho vai trò quan trọng này của các ngân hàng nói trên.
Hơn hết, do "quá lớn nên không thể để đổ vỡ", các NHTM có vốn nhà nước – những ngân hàng đứng đầu hệ thống về quy mô tài sản trong hệ thống – cần phải luôn ở trong trạng thái khỏe mạnh để ít ra cũng không trở thành gánh nặng hỗ trợ mà đôi khi là quá sức với NHNN. Những bài học sống động từ các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới được châm ngòi bởi sự đổ vỡ của một ngân hàng lớn nào đó cho thấy tầm quan trọng của việc buộc các ngân hàng lớn phải luôn duy trì trạng thái vốn lành mạnh để chống đỡ được với các bất ổn và rủi ro tín dụng mà không kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống.
Trở ngại tăng vốn
Phương pháp tăng vốn đầu tiên cho NHTM có vốn nhà nước là thay đổi cơ cấu sở hữu cổ đông. Hiện tại, nhà nước là cổ đông chi phối của ba NHTM có vốn nhà nước đã cổ phần hóa là Vietcombank, Vietinbank và BIDV. Theo cách này, nhà nước có thể giảm tỷ lệ sở hữu hoặc thoái vốn nắm giữ trong 2 ngân hàng là BIDV và Vietcombank (theo quy định hiện hành) cho các cổ đông hiện hữu hoặc cổ đông mới thông qua các đợt phát hành cổ phiếu tăng vốn cho nhà đầu tư (gồm nhà đầu tư nước ngoài) và/hoặc cho công chúng. Tuy nhiên, cách này đang vấp phải trở ngại là những quy định của NHNN, gồm tiêu chuẩn lựa chọn nhà đầu tư, giá bán, thời hạn nắm giữ tối thiểu và trần sở hữu nước ngoài v.v…
NHTM có vốn nhà nước với nhà nước là cổ đông chi phối còn có một cách tăng vốn đương nhiên là nhà nước bổ sung vốn từ ngân sách, song song với việc bỏ vốn tương ứng của các cổ đông còn lại. Nhưng cách này vấp phải trở ngại là Quốc hội không đồng ý cho Chính phủ dùng ngân sách nhà nước để tăng vốn điều lệ cho các NHTM có vốn nhà nước, và không đưa nhu cầu bổ sung vốn cho các NHTM có vốn nhà nước vào danh mục đầu tư công trung hạn.
Một cách tăng vốn phổ biến khác là giữ lại lợi nhuận (không trả cổ tức) để bổ sung vốn. Nhưng cách này cũng không được chấp nhận khi Chính phủ kiên quyết yêu cầu các NHTM có vốn nhà nước phải trả cổ tức bằng tiền mặt (có thể với lý do căng thẳng ngân sách nhà nước).
Cách nào hợp lý hơn?
Rõ ràng là việc tăng vốn cho các NHTM có vốn nhà nước đã không có nhiều lựa chọn mà lựa chọn nào cũng có những mâu thuẫn nội tại. Nên giải pháp có thể thực hiện ở đây chỉ là chọn ra một cách thức tăng vốn nào đó tỏ ra có tổn hại nhỏ nhất so với các cách thức còn lại.
Hiện tại, nếu thực hiện theo kiến nghị của NHNN – dùng ngân sách nhà nước – thì giải pháp này sẽ gây ra những tổn hại như:
(i) Làm căng thẳng thêm thâm hụt ngân sách và nợ công/nợ nước ngoài. Dù có thể lập luận rằng bổ sung vốn từ ngân sách sẽ giúp các ngân hàng khỏe mạnh hơn, hấp dẫn hơn nên, do đó, dễ cổ phần hóa/thoái vốn hơn trong tương lai (và được giá hơn) v.v… nhưng tương lai này là quá bất định để có tính thuyết phục so với cái giá phải trả nhìn thấy ngay trước mắt là tổn hại lớn cho ngân sách đang rất khó khăn và nợ công đã sắp chạm trần.
(ii) Đi ngược lại và làm chậm tiến trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước. Mặc dù việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét cho phép NHTM có vốn nhà nước được bổ sung vốn từ ngân sách là để cho phù hợp với quy định liên quan trong Luật đầu tư công, nhưng những hành động "tháo gỡ" như vậy là tiền đề không tốt cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) khác thoái thác cổ phần hóa và thoái vốn nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung. Trên hết, vẫn chưa thấy có lý giải thỏa đáng từ phía cơ quan quản lý tại sao lại phải dùng ngân sách nhà nước để tăng vốn cho những ngân hàng này mà không dùng những giải pháp khác (như bàn thêm ở phần dưới đây)?
Nếu bổ sung vốn thông qua thoái vốn nhà nước, tăng tỷ lệ sở hữu cổ đông phi nhà nước thì có mấy hậu quả có thể là bất lợi như sau:
(i) Nhà nước sẽ thất thu về cổ tức. Tuy nhiên, sự thất thu này chỉ đúng khi các thước đo lợi nhuận (chẳng hạn ROA và ROE) của NHTM có vốn nhà nước là cao hơn của NHTM tư nhân. Nhưng hiện tại thì điều này không hoàn toàn đúng; vẫn có nhiều NHTM tư nhân hoạt động hiệu quả hơn NHTM có vốn nhà nước. Nói cách khác, với lượng vốn nắm giữ ít hơn ở những ngân hàng tư nhân hiệu quả hơn thì nhà nước vẫn có thể thu về một lượng cổ tức không đổi, mà không nhất thiết phải đổ vốn vào NHTM có vốn nhà nước.
(ii) Nhà nước sẽ mất quyền chi phối các quyết định hoạt động trong ngân hàng, dẫn đến làm vô hiệu hóa công cụ thực thi chính sách quan trọng này đối với NHNN. Tuy nhiên, do tỷ lệ thoái vốn, nếu có, sẽ là không lớn, ít nhất trong thời gian tới đây, nên nhà nước vẫn giữ được mức ảnh hưởng có tính quyết định với những ngân hàng này. Nếu cần, nhà nước có thể thêm các điều kiện khi thoái vốn như duy trì quyền phủ quyết. Trên hết, trong cơ chế hiện nay, NHNN có nhiều quyền lực, bằng cách này hay cách khác, để buộc bất cứ một ngân hàng nào đó thực hiện chủ trương mà không cần phải duy trì tỷ lệ sở hữu nhà nước quá lớn trong các ngân hàng.
(iii) Tăng khả năng bị cạnh tranh, thôn tính và lũng đoạn của nhà đầu tư nước ngoài (gồm các ngân hàng nước ngoài) với hệ thống ngân hàng. Điều này có thể phần nào sẽ là hiện thực nếu nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tỷ lệ sở hữu cao, chi phối. Nhưng thực tế và triển vọng của các NHTM có vốn nhà nước cho thấy điều này là khó xảy ra trong những năm tới, ngoại trừ với những ngân hàng yếu kém, đang được tái cơ cấu (và nhà đầu tư nước ngoài có thể sở hữu 100%). Mà những ngân hàng này, do quy mô có hạn, không phải là công cụ chính sách của NHNN, và cũng không phải là mối đe dọa tới sự an toàn và ổn định của hệ thống.
Và cuối cùng, nếu bổ sung vốn bằng cách cho phép các NHTM có vốn nhà nước được giữ lại lợi nhuận, không chi trả cổ tức (bằng tiền mặt), việc này sẽ làm ảnh hưởng ngay đến thâm hụt ngân sách. Tuy vậy, quy mô và ảnh hưởng của việc này sẽ là nhỏ hơn so với việc nhà nước phải trích ngân sách ra để trực tiếp bổ sung vốn cho ngân hàng. Và suy cho cùng, với cùng lập luận rằng bổ sung vốn ngân sách cho ngân hàng là để cho nó khỏe hơn, hiệu quả hơn nên sẽ dễ thoái vốn sau này với giá cao hơn, việc cho phép ngân hàng giữ lại lợi nhuận nhằm bổ sung vốn cũng là nhằm đạt được cùng một mục đích như vậy nhưng với phí tổn nhỏ hơn.
Tóm lại, việc cho phép NHTM có vốn nhà nước được giữ lại lợi nhuận và (kết hợp với) thoái bớt vốn nhà nước nắm giữ cho nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ là giải pháp hữu hiệu hơn là việc dùng ngân sách nhà nước để tăng vốn cho các ngân hàng này.

Huy động 60 tỉ đô la tiền nhàn rỗi trong dân: Sai ngay từ tiền đề! (Bài đăng trên TBKTSG, 30/8/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/277857/huy-dong-60-ti-do-la-tien-nhan-roi-trong-dan-sai-ngay-tu-tien-de.html

Vì cho rằng người dân đang trữ một lượng vàng "nhàn rỗi" lớn, ước tính đến 500 tấn, nên câu chuyện huy động vàng trong dân để phát triển kinh tế đã được "xới đi xới lại" từ nhiều năm nay để rồi đâu vẫn còn nguyên đó.
Nhưng mới đây, dư luận lại được một phen dậy sóng nữa với phát biểu của một chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB) rằng nền kinh tế Việt Nam có tỷ lệ tích lũy trong dân cao, tới khoảng 60 tỉ đô la Mỹ mà chưa được huy động hết, đây là tiềm năng lớn. 
Hiển nhiên, 60 tỉ đô la là một con số rất lớn với Việt Nam (GDP của Việt Nam hiện tại vào khoảng 220 tỉ đô la), đặc biệt là trong hoàn cảnh bội chi ngân sách lớn và nợ công cao, Chính phủ vẫn phải tăng cường vay nợ nước ngoài. Giả sử 60 tỉ đô la này là có thật và nhất là “nhàn rỗi” – tức đang nằm trong két, dưới chiếu hoặc trong tủ nhà dân – thì đây là một sự lãng phí và bất hợp lý khủng khiếp. Và thế nên, trong bối cảnh này, sự cần thiết và khẩn trương huy động 60 tỉ đô la cho đầu tư và phát triển là điều không phải bàn.
Tuy nhiên, trước khi bàn về cách thức huy động số tiền “nhàn rỗi” này, như cách mà giới chuyên gia và báo chí đang tích cực thực hiện, thì cần làm rõ về con số 60 tỉ đô la này trước.
Theo lời vị chuyên gia WB, được dịch và đăng tải trên báo chí (người viết không có điều kiện tiếp cận trực tiếp lời phát biểu này), đây là khoản “tích lũy” trong dân. Rất có thể từ “tích lũy” này được dịch từ “savings” trong phát biểu nguyên bản bằng tiếng Anh của vị chuyên gia này. 
Theo số liệu WB, tỷ lệ “Gross domestic savings (% of GDP)”  hay tổng tích lũy trong nước (phần trăm của GDP) của Việt Nam là 29,16% vào năm 2016 (1). GDP của Việt Nam năm 2016 được báo cáo ở mức 202,6 tỉ đô la. Như vậy, mức tích lũy trong nước của Việt Nam năm 2016 vào khoảng trên 59 tỉ đô la một chút, tức không khác xa so với con số 60 tỉ đô la nêu trên.
Nói cách khác, con số 60 tỉ đô la là con số có cơ sở, có thể tin được, nhưng nó hoàn toàn không phải và không liên quan đến “tiền nhàn rỗi trong dân” như cách hiểu của nhiều người, và có thể cả vị chuyên gia WB này.
Theo định nghĩa, tổng tích lũy trong nước là phần chênh lệch giữa GDP và chi tiêu cuối cùng (hiểu nôm na là khoản còn lại giữa thu và chi). Tổng tích lũy gồm có tích lũy của hộ gia đình, tích lũy của khu vực doanh nghiệp tư nhân, và tích lũy của khu vực nhà nước (2)

Tích lũy của các chủ thể kinh tế nói trên có thể ở dạng tài sản vật chất hoặc tài sản tài chính. Trong số tài sản tích lũy này đương nhiên có thể có kim loại quý, kim cương, bất động sản (dành cho đầu cơ/đầu tư), ngoại tệ, chứng khoán và các giấy tờ có giá khác, gồm cả trái phiếu Chính phủ nước ngoài… Và đương nhiên là trong số những tài sản tích lũy này có thể có một số tài sản đang nằm trong tủ hoặc dưới chiếu của dân như vàng hoặc ngoại tệ.
Từ khái niệm và mô tả thành phần nêu trên, có thể thấy ngay rằng việc nói 60 tỉ đô la là tiền tích lũy trong dân là hoàn toàn sai, vì tích lũy trong dân chỉ là một trong ba cấu thành tạo nên con số 60 tỉ này (ngoài nó ra còn có tích lũy của doanh nghiệp và tích lũy của Nhà nước).
Tiếp đó, việc cho rằng 60 tỉ đô la là “tiền nhàn rỗi” thì càng sai nữa, ít nhất bởi vì trong những tài sản tích lũy này còn có các tài sản tài chính – tức là những sản phẩm đầu tư.
Nói cách khác, những tài sản tích lũy này đã và đang được “huy động”, và những người “huy động” này là các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại và cả Nhà nước nữa (ví dụ, trái phiếu Chính phủ).
Kể cả với những tài sản vật chất như vàng, ngoại tệ và bất động sản, tuy có thể đang nằm bất động một chỗ về mặt vật lý nhưng sự bất động này trước tiên rất có thể chỉ là tạm thời trong lúc người chủ đang chuẩn bị quay vòng hoặc tìm cơ hội đầu tư mới. Thứ nữa, sự bất động này nhiều lúc cũng chính là một sự đầu tư có chủ ý khi người chủ, ví dụ, tin rằng giá vàng, giá nhà sẽ tăng lên trong mấy tháng nữa, nên họ mua vàng/bất động sản để đó, đợi thời điểm hiện thực hóa lợi nhuận. Trên hết, về khái niệm, hoàn toàn không có một thứ tài sản nào đã được gọi là tài sản mà lại nằm “nhàn rỗi” cả!
Nhưng có thể, nhiều người vẫn muốn tin rằng việc để các tài sản vật chất như vàng, ngoại tệ, bất động sản của người dân nằm bất động trong thời điểm hiện tại là một sự lãng phí, một sự kinh doanh/đầu tư không hiệu quả nên cần phải “huy động” số tài sản này. Nếu vậy, trước hết cần trả lời câu hỏi là “huy động” để nhằm mục đích gì?
Nếu nói rằng “huy động” để phát triển kinh tế thì e rằng mục đích này quá trừu tượng, “vĩ mô”, không thích hợp với chủ nhân các tài sản vật chất này. Với người dân hoặc doanh nghiệp, rất đơn giản, nếu muốn “huy động” tài sản của họ thì cần phải chắc chắn mang lại cho họ một mức lợi nhuận lớn hơn mức họ tự đầu tư/kinh doanh những tài sản này, gồm cả việc để chúng nằm đợi thời. Nếu không đảm bảo được như vậy thì, trừ khi bị cưỡng ép, sẽ chẳng có người dân hay doanh nghiệp nào đồng ý để người khác sử dụng tài sản của mình, dù là nhân danh những thứ cao cả.
Và câu hỏi tiếp theo có liên quan ở đây là ai sẽ đứng ra “huy động” và đảm bảo rằng sẽ đầu tư/kinh doanh số tài sản này một cách hiệu quả hơn người dân và doanh nghiệp (gồm cả các tổ chức tài chính, ngân hàng)?
Ngoài người dân và doanh nghiệp thì chỉ còn một chủ thể kinh tế còn lại là Nhà nước. Nhưng Nhà nước không thể trực tiếp đầu tư, kinh doanh mà phải thực hiện thông qua hoặc ủy thác cho các doanh nghiệp cụ thể nào đó, gồm doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Mà như vậy thì cũng chẳng có gì đảm bảo rằng những doanh nghiệp này, đặc biệt là DNNN, sẽ kinh doanh hiệu quả hơn và, quan trọng hơn, sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho người dân và doanh nghiệp có tài sản đang “nhàn rỗi” đúng hạn.
Nhìn rộng ra thế giới. Rất nhiều nước còn có mức tích lũy cao hơn của Việt Nam nhưng người viết không biết đến trường hợp một nước nào đó lại đặt ra vấn đề “huy động” tài sản tích lũy cho phát triển kinh tế cả. Bởi thực tế, các tài sản này đều được “huy động” dưới dạng này hay dạng khác, bằng cách này hay cách khác, bởi người này hay người khác, theo các cơ chế và quy luật thị trường.
Nói cách khác, do chẳng có một thứ tài sản nào, kể cả tài sản tích lũy/tiết kiệm, là “nhàn rỗi” nên việc đặt vấn đề “huy động tiền nhàn rỗi trong dân” là sai ngay từ tiền đề!
(1) tradingeconomics.com
(2) https://economictimes.indiatimes.com/definition/gross-domestic-saving


Sunday 26 August 2018

Đằng sau các con số nợ (Bài đăng trên TBKTSG, 26/8/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/277431/dang-sau-cac-con-so-no-.html


Mới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Thủ tướng báo cáo “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài giai đoạn 2018-2020, tầm nhìn 2021-2025” (sau đây gọi tắt là báo cáo), với một số nội dung và đề xuất đáng chú ý.

Các tiền đề bất hợp lý

Một mặt, báo cáo nêu rằng tỷ trọng tổng đầu tư vốn xã hội trên GDP trong giai đoạn 2010-2016 đã giảm còn khoảng 32,8%. Mặt khác, báo cáo khẳng định để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6-8%/năm thì Việt Nam cần có mức đầu tư tới 35-40% GDP. Từ đây, báo cáo đặt vấn đề là để có được mức đầu tư này thì Việt Nam cần tăng cường vay nước ngoài.

Cách đặt vấn đề như trên là không thỏa đáng. Đành rằng khi nguồn tiết kiệm trong nước không đủ thì vay nước ngoài là tất yếu. Nhưng vay nước ngoài ở mức độ bao nhiêu là điều đáng nói. Tuy trong giai đoạn 2010-2016 tổng vốn đầu tư giảm xuống còn 32,8% GDP nhưng tăng trưởng trung bình vẫn đạt trên 6%. Hoặc như năm 2017 và nửa năm đầu 2018, tổng vốn đầu tư/GDP còn giảm xuống thấp hơn nữa (một phần thể hiện qua mức tăng trưởng tín dụng đã chậm lại đáng kể) nhưng tăng trưởng GDP thậm chí còn tăng cao hơn mấy năm trước đây.

Như vậy, giữa tăng trưởng GDP và tăng trưởng vốn đầu tư có thể không có quan hệ tuyến tính. Do đó, cũng không nên đặt vấn đề là để duy trì tăng trưởng GDP 6-8% thì phải tăng vốn đầu tư mạnh hơn hiện nay để rồi lấy đó làm cớ để tiếp tục đẩy mạnh vay nước ngoài hơn nữa.

Cần lưu ý rằng, như báo cáo cho thấy, nguồn vốn tích lũy trong nước khoảng 30% GDP. Như thế thì nếu khéo tằn tiện và tiếp tục cải thiện huy động vốn trong nước, đặc biệt là khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công thì Việt Nam thậm chí còn có khả năng tự cung tự cấp vốn đầu tư mà không cần phải dựa nhiều vào nguồn vốn vay nước ngoài, kể cả ODA và vốn vay ưu đãi, ít nhất là trong trung và dài hạn. Lẽ ra, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phải đi theo hướng này - đề ra chiến lược giảm dần và chấm dứt vay nước ngoài, chứ không phải là làm ngược lại như hiện tại.

Tư duy tranh thủ, tận dụng

Đọc phần nêu về tình hình huy động vốn nước ngoài giai đoạn 2016-2017 trong báo cáo, người viết thấy toát lên tinh thần tận dụng, chạy nước rút để tranh thủ vay được càng nhiều vốn rẻ nước ngoài (gồm ODA, vốn ưu đãi và viện trợ không hoàn lại) càng tốt trước khi Việt Nam “tốt nghiệp” các nguồn vốn này trong giai đoạn 2017-2020. Như vậy, ưu tiên ở đây là vay được vốn rẻ chứ không phải là làm gì tốt nhất với vốn vay. Có thể vì thế mà cả nợ công lẫn nợ được Chính phủ bảo lãnh đã tăng trong năm 2017 (xem bảng).
Trớ trêu là từ năm 2017 cũng xảy ra hiện tượng ùn ứ giải ngân vốn đầu tư công. Điều này một mặt cho thấy việc vay vốn nước ngoài đã không được căn cứ vào tình hình đầu tư trong nước (các dự án đầu tư và tính khả thi, tiến độ triển khai...). Mặt khác, điều này đã và đang để lại hậu quả lớn là vay nợ tiếp tục tăng mạnh, tiền trả lãi vẫn đang phát sinh trong khi vốn vay về thì hoặc là đem gửi vào ngân hàng thương mại (NHTM) với lãi suất thấp (và chịu lỗ tỷ giá), hoặc là gửi ở Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để tránh gây áp lực lạm phát.

Điều đáng nói nữa là tư duy tranh thủ nói trên xem ra sẽ được tiếp tục phát huy trong những năm tới, căn cứ vào nội dung báo cáo. Theo đó, chỉ tập trung vào tính xem nguồn vay nào rẻ nhất, có lợi nhất, khai thác, bổ sung được bao nhiêu nữa trước khi chạm trần các hạn mức vay nợ, và trước khi Việt Nam “tốt nghiệp” các nguồn vốn giá rẻ. Dường như báo cáo chỉ tập trung hoàn toàn vào chuyện đi vay, làm sao để vay được kịch trần, mà “quên” mất chuyện quan trọng là nếu cứ tìm cách vay kịch trần như vậy thì đến bao giờ Việt Nam mới giảm được nợ nước ngoài và giảm phụ thuộc vào nước ngoài. 

Bỏ qua rủi ro tỷ giá

Báo cáo có sử dụng một số kịch bản giả định về phát triển kinh tế, trong đó có một số biến số vĩ mô, nhưng không có biến số tỷ giá là cái gắn thiết thực với khả năng vay nợ nước ngoài đặt trong hạn mức nợ công (bằng tiền đồng). Từ mức trần nợ công/GDP và GDP danh nghĩa, báo cáo tính ra được hạn mức nợ công và dư địa vay mượn thêm bằng tiền đồng. Với cách tính này, biến động tỷ giá đã bị loại bỏ.

Báo cáo cũng kiến nghị với Quốc hội cho phép điều chỉnh linh hoạt cơ cấu nguồn vốn giữa vốn vay trong nước và vốn vay nước ngoài trong khuôn khổ giữ hạn mức 2 triệu tỉ đồng của kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020. Mục đích của kiến nghị này có thể là để đảm bảo tính hiệu quả về chi phí. Cụ thể, nếu thấy vay nước ngoài rẻ hơn trong nước thì nên vay nước ngoài nhiều hơn, mà không bị “trói” bởi quy định về cơ cấu nguồn vốn.

Tuy nhiên, như đã chứng kiến, tỷ giá có những thời điểm tăng mạnh, đến hàng chục phần trăm, làm cho việc tăng cường vay nợ nước ngoài trở nên cực kỳ rủi ro, và đặt gánh nặng quá sức lên NHNN để ổn định tỷ giá nhằm đảm bảo khả năng trả nợ cho Chính phủ, địa phương và doanh nghiệp. Đặc biệt trong bối cảnh bất ổn toàn cầu với chiến tranh thương mại và tiền tệ, việc tranh thủ, tận dụng mọi dư địa còn lại để vay nợ nước ngoài là điều bất cẩn, rất dễ đến khả năng là trần nợ công sẽ bị phá vỡ khi tỷ giá tăng mạnh hơn mức dự kiến/kỳ vọng hiện tại. Bởi vậy, trong thời gian tới cần phải duy trì dư địa vài điểm phần trăm còn lại như hiện nay giữa mức dư nợ công hiện tại với trần nợ công để phòng trường hợp tỷ giá thoát khỏi sự kiểm soát của NHNN. 

Thursday 23 August 2018

Cần hiểu đúng việc Moody’s nâng hạng tín nhiệm với các ngân hàng (Bài đăng trên TBKTSG, 24/8/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/277434/can-hieu-dung-viec-moody%E2%80%99s-nang-hang-tin-nhiem-voi-cac-ngan-hang-.html

Ngày 14-8-2018, hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s đã điều chỉnh xếp hạng tín nhiệm trên một số tiêu chí cho 14/16 ngân hàng của Việt Nam mà hãng này theo dõi và đánh giá.

Cụ thể, Moody’s nâng hạng tín nhiệm cho tiền gửi nội tệ, ngoại tệ, và nhà phát hành cho ba ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước là Vietcombank, VietinBank và BIDV. Sự nâng hạng tương tự cũng được dành cho năm ngân hàng TMCP không có vốn nhà nước gồm ABB, Liên Việt, TPBank, VIB và VP Bank. 
Moody’s nâng hạng tín nhiệm cho tiền gửi ngoại tệ dài hạn đối với ba ngân hàng TMCP gồm ACB, MB và Techcombank. Đồng thời, Moody’s nâng hạng rủi ro đối tác (CRR) và đánh giá rủi ro đối tác (CRA) dài hạn đối với VietinBank, BIDV, SHB, HDBank và OCB.
Hãng này cũng thay đổi triển vọng tiền gửi nội tệ và triển vọng nhà phát hành nội tệ và ngoại tệ xuống “Ổn định” từ mức “Tích cực” cho tám ngân hàng gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank, ABB, Liên Việt, TPBank, VIB và VP Bank.
Nâng hạng không nhất thiết có nghĩa là tình hình kinh doanh đã tốt hơn
Thực tế, như được nêu rõ trong thông cáo báo chí, Moody’s nâng hạng tín nhiệm của nhiều ngân hàng TMCP của Việt Nam vì họ cũng mới nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam (ngày 10-8-2018) từ B1 lên Ba3 và thay đổi triển vọng xếp hạng tín nhiệm từ “Tích cực” xuống “Ổn định”. Trong khi đó, Moody’s không thay đổi mức xếp hạng cơ bản (baseline credit assessment - BCA) của các ngân hàng TMCP này. Hiểu BCA nôm na là mức xếp hạng tín nhiệm tự thân của các ngân hàng khi không có bất cứ sự trợ giúp nào từ một ai/yếu tố nào khác.Sự nâng hạng tín nhiệm hàng loạt ngân hàng nói trên trong nhiều tiêu chí đã làm nhiều người nhầm tưởng rằng Moody’s nhìn nhận tình hình kinh doanh của ngành ngân hàng ở Việt Nam đã có những cải thiện và khởi sắc đáng kể, thỏa mãn điều kiện để được nâng hạng tín nhiệm do Moody’s đặt ra.
Nói cách khác, và như thông thường, khi các hãng xếp hạng tín nhiệm thay đổi (nâng/hạ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia thì họ cũng thường thay đổi (nâng/hạ) xếp hạng tín nhiệm của một số doanh nghiệp/ngân hàng có liên quan của quốc gia đó.
Trong trường hợp của Việt Nam, như Moody’s đã giải thích trong thông cáo báo chí của mình, xếp hạng tín nhiệm quốc gia là một yếu tố đầu vào chủ chốt để hãng này xếp hạng tín nhiệm cho các ngân hàng Việt Nam, bởi xếp hạng tín nhiệm quốc gia là căn cứ để Moody’s đánh giá khả năng/năng lực của Chính phủ trong việc hỗ trợ các ngân hàng TMCP khi xảy ra căng thẳng. 
Như vậy, việc Moody’s nâng hạng tín nhiệm nhiều ngân hàng Việt Nam nói đơn giản chỉ là “ăn theo” hành động nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Moody’s đối với Việt Nam hôm 10-8-2018, chứ không nhất thiết phản ánh rằng họ đã thấy có sự thay đổi thực chất (theo hướng tốt lên) trong nền tảng kinh doanh và sức khỏe tài chính của các ngân hàng này.
Hạ triển vọng xếp hạng tín nhiệm là bình thường
Một điều có thể gây khó hiểu cho nhiều người là tại sao Moody’s một mặt nâng hạng tín nhiệm cho quốc gia và cho nhiều ngân hàng TMCP, nhưng mặt khác lại hạ triển vọng xếp hạng từ mức “Tích cực” xuống “Ổn định”. Sự nâng và hạ này có mâu thuẫn hay không khi một bên gợi ý cho thấy có sự cải thiện, một bên lại dường như cho thấy điều ngược lại?
Điều đó có thể được giải thích ở khía cạnh như sau: Thông thường, để các hãng xếp hạng tín nhiệm nâng hạng tín nhiệm của một thực thể kinh tế nào đó thì bước đi cần thiết là thực thể đó phải có được triển vọng xếp hạng là “Tích cực”, được điều chỉnh lên từ triển vọng “Ổn định” trước đó. Và khi có một bước ngoặt nào đó xảy ra, chẳng hạn như kết quả kinh doanh trong những năm trước liên tục cải thiện, đáp ứng được các tiêu chí xếp hạng ở mức cao hơn thì các hãng xếp hạng sẽ tiến hành điều chỉnh nâng hạng của thực thể này lên tương ứng.
Một khi đã được nâng hạng rồi thì triển vọng nâng hạng trong tương lai, ít nhất là sau 18-24 tháng,  cần phải được quay trở về mức bình thường, tức “Ổn định”, trước khi hãng xếp hạng tín nhiệm lại nhìn thấy có nhiều yếu tố thuận lợi hoặc bất lợi mới để họ một lần nữa điều chỉnh nâng triển vọng từ “Ổn định” lên “Tích cực” hoặc hạ xuống “Tiêu cực” tùy thuộc điều kiện thực tế, và lấy đó làm cơ sở hỗ trợ cho việc điều chỉnh mức xếp hạng cao hơn hoặc thấp hơn tương ứng của thực thể này trong tương lai.
Phản ánh có chủ ý?
Một điều cần lưu ý nữa là một số bài báo ở Việt Nam thông tin việc Moody’s điều chỉnh mức xếp hạng tín nhiệm của các ngân hàng TMCP theo cách xem ra là để phục vụ cho mục tiêu quảng bá. Cụ thể, có bài nhấn mạnh đến đánh giá của Moody’s rằng Chính phủ Việt Nam có khả năng hỗ trợ “rất cao” (very high) đối với một ngân hàng TMCP có vốn nhà nước cụ thể. Thực ra thì Moody’s dành tiêu chí này cho không phải chỉ một mà là cả ba ngân hàng TMCP có vốn nhà nước (Vietcombank, BIDV và VietinBank).
Có thể các bài báo này chỉ đơn thuần quảng bá cho một ngân hàng cụ thể. Nhưng cách nêu vấn đề như vậy hoàn toàn có thể có tác dụng ngược vì một số người đọc có thể hiểu rằng ngân hàng TMCP có vốn nhà nước này đang có vấn đề nên (buộc) Nhà nước phải trong tư thế sẵn sàng nhảy vào hỗ trợ bằng mọi giá (có thể vì lý do là quá lớn nên không thể để xảy ra đổ vỡ).
Hơn nữa, khả năng hỗ trợ “rất cao” này dù muốn được nhìn nhận ở khía cạnh tích cực (cho ngân hàng cụ thể này) nhưng thực ra cũng hoàn toàn là điều bình thường, chứ không phải là điều đặc biệt hay tích cực gì cả. Ngoài khả năng là do quy mô của ngân hàng này quá lớn nên không thể để xảy ra đổ vỡ, sẽ gây khủng hoảng cho nền kinh tế, buộc Chính phủ phải dốc sức hỗ trợ tối đa có thể khi “lâm sự”, các ngân hàng loại này vẫn được Nhà nước nắm giữ một tỷ lệ cổ phần lớn, chi phối nên đương nhiên Nhà nước muốn/phải hỗ trợ chúng hết mình khi cần thiết nếu không muốn bị mất vốn hoặc cụt cổ tức.
Tương tự như vậy, một số ngân hàng TMCP riêng lẻ cũng được báo chí chọn ra và được nhấn mạnh rằng Moody’s đã nâng xếp hạng tín nhiệm của nó lên. Trong khi thực tế Moody’s đã nâng hạng tín nhiệm cho hàng loạt ngân hàng TMCP (và, xin lặp lại, sự nâng hạng này chỉ là “ăn theo” sự nâng hạng tín nhiệm quốc gia), việc chỉ chọn và nêu bật một ngân hàng TMCP rõ ràng có hơi hướng của quảng bá, trong khi thực chất không hẳn đã có những biến chuyển tốt về kết quả kinh doanh và sức khỏe của ngân hàng này.

Monday 20 August 2018

Tránh bất hợp lý trong quản lý thuế (Bài đăng trên TBKTSG, 20/8/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/td/277108/tranh-bat-hop-ly-trong-quan-ly-thue-.html


Dự thảo Luật quản lý thuế do Bộ Tài chính soạn thảo có một số quy định liên quan đến việc khoanh nợ, xóa nợ thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt. Bài viết này sẽ phân tích một số bất hợp lý liên quan đến những điều khoản này trong dự thảo luật.

Điều 83 của dự thảo luật quy định các trường hợp được khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp. Theo đó, người nộp thuế là cá nhân đã chết hoặc được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự sẽ được khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp.

Đồng thời, điều 69 quy định việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người được pháp luật coi là đã chết do người được thừa kế thực hiện trong phần tài sản của người đã chết để lại hoặc phần tài sản người thừa kế được chia tại thời điểm nhận thừa kế.

Như vậy, dù được khoanh nợ nhưng khoản nợ thuế của người đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự vẫn sẽ phải được trả bởi người thừa kế của người này. Nhưng do điều 83 không quy định thời hạn được khoanh nợ và trong thời hạn đó thì người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế (sau thời hạn đó nếu không thực hiện sẽ bị chế tài, ví dụ, bị đóng băng mọi giao dịch sang tên tài sản, quyền thừa kế; tài sản thừa kế bị tịch thu, đấu giá để thực hiện nghĩa vụ thuế…) nên sẽ có trường hợp người thừa kế sẽ cố tình chây ì, không hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho những khoản được khoanh nợ.

Do đó, điều 83 hoặc các điều khoản liên quan khác cần bổ sung thêm thời hạn khoanh nợ tiền thuế và chế tài áp dụng khi quy định này bị vi phạm.

Cũng điều 83 (khoản 4) quy định người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký, không hiện diện tại địa bàn… thì sẽ được khoanh nợ thuế. Về điều khoản này, cần bổ sung thêm cho rõ rằng chỉ được phép khoanh nợ khi cơ quan thuế đã làm rõ, nắm chắc được rằng người nộp thuế không còn kinh doanh ở một địa điểm khác, hoặc không kinh doanh online (sử dụng giấy phép kinh doanh hiện tại...). Nếu không làm rõ được như vậy thì  không được khoanh nợ thuế, và vẫn phải tính lãi và phí phạt chậm nộp thuế như bình thường.

Điều 85 (khoản 2) quy định chủ doanh nghiệp tư nhân, cá nhân đã chết hoặc được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ thì sẽ được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.

Quy định như trên là một lỗ hổng, tạo điều kiện cho, ví dụ, sự thông đồng gian lận hoặc vô trách nhiệm của cán bộ thuế. Chẳng hạn, trước lúc người có nghĩa vụ nộp thuế chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, người này vẫn đang nợ thuế, vẫn đang có thu nhập, có tài sản nhưng không chịu nộp thuế và nhận được sự “bỏ qua” hay thờ ơ của cán bộ thuế trong việc cưỡng chế nộp thuế đúng và đủ. Việc để nợ đọng thuế phát sinh cho đến lúc người có nghĩa vụ nộp thuế được pháp luật xác định không trả được như vậy là có trách nhiệm của cơ quan thuế địa phương.

Do đó, nếu muốn xóa nợ thuế trong trường hợp này thì cần quy định thêm rằng: “Chỉ được xóa nợ tiền thuế và tiền chậm nộp, tiền phạt thuế khi có đủ căn cứ cho thấy trước đó cơ quan thuế đã thực hiện đầy đủ và đúng các biện pháp cưỡng chế nộp thuế theo quy định của pháp luật mà vẫn không thu hồi được thuế và tiền chậm nộp, tiền phạt”.

Khoản 3 điều 85 quy định được phép xóa các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế cuối cùng quy định tại khoản 1 Điều 127 của Luật này, và các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt này đã quá mười năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng không có khả năng thu hồi.

Điều khoản trên bất hợp lý vì nếu đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế mà không có khả năng thu hồi thì không cần phải đợi đến 10 năm mới được xóa nợ thuế, mà cần xóa nợ sớm nhất có thể để tránh gáng nặng hành chính, nhân lực cho ngành thuế. Tuy nhiên, cần có thêm điều kiện là chỉ được áp dụng điều khoản này với những khoản nợ thuế và tiền chậm nộp, tiền phạt phát sinh sau ngày Luật này có hiệu lực. Điều này là để tránh chuyện hợp pháp hóa hậu quả của, ví dụ, sự vô trách nhiệm và/hoặc thông đồng của cán bộ thuế với người nộp thuế, dẫn đến nợ đọng thuế kéo dài từ nhiều năm trước đây dồn lại cho đến tận bây giờ để rồi được đề nghị xóa nợ cho… nhẹ nợ!

Điều 87 quy định thẩm quyền xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho các cấp lãnh đạo từ Thủ tướng xuống đến cấp cục của Tổng cục thuế, hải quan.

Việc trao thẩm quyền xóa nợ ở các mức tương ứng với cấp bậc lãnh đạo là điều bất hợp lý. Mặc dù logic của việc này có thể là những vị lãnh đạo liên quan này chắc chắn sẽ trong sáng, công tâm, và có trách nhiệm; họ chỉ phê duyệt xóa nợ thuế theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu vậy thì logic này đòi hỏi các vị lãnh đạo này phải đọc từng hồ sơ xóa nợ thuế để biết chắc chắn rằng quyết định của mình là đúng đắn, phù hợp với quy dịnh của pháp luật.

Đương nhiên là với hàng ngàn cho đến cả hàng vạn hồ sơ xin xóa nợ thuế nằm trên bàn làm việc của từng vị lãnh đạo này (càng xuống dưới thì càng nhiều hơn) thì việc xem xét toàn diện và cẩn thận từng hồ sơ là điều không tưởng. Như thế có nghĩa là những vị lãnh đạo này sẽ lại phải dựa vào, “ủy thác” cho đội ngũ trợ lý, giúp việc “ký nháy” trình lên để họ chỉ việc ký (mà thậm chí cũng chẳng có thời gian làm chuyện này nữa). Nói cách khác, việc phân cấp thẩm quyền xóa nợ theo độ lớn của khoản nợ như đề xuất chỉ là hình thức mà rốt cuộc lại tùy thuộc vào đề xuất của cán bộ thuế từ cấp cơ sở.

Vậy thì nếu không thể đặt lòng tin vào trách nhiệm và sự công tâm, trong sáng và ngay thẳng của cán bộ thuế cơ sở trong việc xóa nợ thuế thì tốt nhất là không quy định việc/thẩm quyền xóa nợ thuế mà hãy để cho khoản nợ thuế tự động bị xóa bỏ sau một thời gian nhất định, sau khi cơ quan thuế đã thực hiện mọi biện pháp cưỡng chế thuế, như tác giả đề xuất liên quan đến khoản 3 điều 85 ở trên.

Nếu muốn làm chắc hơn thì có thể quy định thêm rằng khoản nợ thuế sẽ bị xóa bỏ sau X tháng/năm, sau khi cơ quan thuế đã thực hiện mọi biện pháp cưỡng chế thuế, và được xác nhận bởi khi cơ quan thanh tra thuế (hoặc một cơ quan thanh tra, giám sát độc lập nào đó của Chính phủ); và/hoặc việc xóa nợ thuế này sẽ được thanh tra/kiểm toán định kỳ hàng quý/năm…

Dự thảo Luật quản lý thuế: Nhiều nhiệm vụ giao nhầm đối tượng (Bài đăng trên TBKTSG, 20/8/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/td/277106/du-thao-luat-quan-ly-thue-nhieu-nhiem-vu-giao-nham-doi-tuong-.html


Bộ Tài chính đã xây dựng và đang đưa ra lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Luật quản lý thuế (sửa đổi) để chuẩn bị trình Chính phủ. Bài viết này chọn và nêu một số điểm chưa hợp lý trong dự thảo liên quan đến nhiệm vụ được giao cho một số đối tượng phi nhà nước, cần được xem xét, sửa đổi để phù hợp hơn.

Thứ nhất, điều 25 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong việc quản lý thuế. Theo đó, các tổ chức này phổi hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế, cung cấp thông tin liên quan đến việc quản lý thuế.

Mặc dù điều khoản trên không nói rõ là các tổ chức này phải thực hiện những nội dung tuyên truyền và cung cấp thông tin trên nhưng vì điều khoản này đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức này nên có thể hiểu rằng họ có nhiệm vụ tuyên truyền và cung cấp thông tin về thuế. Quy định như thế này là không thỏa đáng, ít nhất với những tổ chức tự chủ về kinh phí, không nhận kinh phí hoạt động từ ngân sách. Nói cách khác, nếu có tổ chức nào đó phải thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền này thì cùng lắm chỉ là những tổ chức do nhà nước lập ra, thụ hưởng ngân sách nên phải thực hiện những công việc, nhiệm vụ mà nhà nước giao mà thôi.

Có phần tương đồng như vậy là điều 26 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thông tin, báo chí trong việc quản lý thuế. Mặc dù hiện nay chưa có cơ quan thông tin, báo chí tư nhân nhưng, ngược lại, cũng không hoàn toàn chỉ có báo chí nhà nước, “sống nhờ” (hoàn toàn) vào ngân sách. Do có cả mục đích kinh doanh, theo đuổi lợi nhuận, nên báo chí không có nghĩa vụ, nhiệm vụ phải đăng cái gì đó không đem lại hiệu quả kinh tế cho họ. Như vậy, trừ khi cơ quan thuế ký hợp đồng hợp tác tuyên truyền (và trả phí), nhiều tờ báo có quyền từ chối tuyên truyền, cung cấp thông tin về quản lý thuế, nếu muốn. Nên quy định như điều 26 là sự trói buộc bất hợp lý, trái luật với cơ quan thông tin, báo chí nói chung.

Điều 27 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của ngân hàng thương mại (NHTM) trong quản lý thuế có tiến bộ hơn điều khoản 25 và 26 ở góc độ là nó chỉ rõ phạm vi đối tượng thực thi điều khoản này – các NHTM “khi tham gia phối hợp” (với cơ quan thuế). Điều này cũng có nghĩa là các ngân hàng khác không thuộc đối tượng này ((khi) không phối hợp với cơ quan thuế) thì không phải thực hiện những nội dung trong điều khoản này. Nhưng như vậy thì dự thảo phải có thêm quy định NHTM như thế nào thì sẽ được/phải “phối hợp” với cơ quan thuế trong việc quản lý thuế, và nếu “phối hợp” như vậy thì sẽ được lợi ích cụ thể gì để “trả công” cho sự “phối hợp” này. Bởi, xin lưu ý, NHTM không phải là cánh tay nối dài của cơ quan thuế, không thụ hưởng ngân sách, nên không có nghĩa vụ phải phối hợp với cơ quan thuế làm nhiều việc về quản lý thuế.

Mặt khác, điều 27 đề ra khá nhiều công việc cho NHTM mà thực chất là những công việc, là nhiệm vụ của mạng lưới Kho bạc, của cơ quan thuế. Tuy, như trên đã nói, NHTM có thể được trả công cho sự thực hiện những công việc của Kho bạc, của cơ quan thuế, nhưng câu hỏi nảy sinh là vậy thì hệ thống Kho bạc, hệ thống của cơ quan thuế tồn tại để làm gì, ngân sách trả tiền cho họ để làm gì, tại sao cơ quan thuế không làm những công việc hiển nhiên thuộc trách nhiệm của mình, ví dụ hỗ trợ người nộp thuế điện tử, mà lại muốn giao cho NHTM? Nếu vì lý do là cơ quan thuế, Kho bạc bị quá tải, không đảm đương hết được những công việc này nên phải thuê NHTM giúp thêm thì điều này là thuộc phạm trù khác, không được phép đưa vào luật.

Trên hết, nên nhớ rằng NHTM chỉ là trung gian thực hiện các giao dịch, nếu có, giữa người nộp thuế và cơ quan thuế (chẳng hạn như thực hiện lệnh chuyển tiền (để nộp thuế) của chủ tài khoản đến một tài khoản chỉ định bởi cơ quan thuế), chứ chúng không thể, không có tư cách pháp lý đại diện cho cơ quan thuế để làm những công việc của cơ quan thuế.

Sẽ càng là phi lý nếu NHTM (phải tự động) “khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp theo quy định pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử có phát sinh thu nhập từ Việt Nam theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Bởi, rõ ràng là trách nhiệm và thẩm quyền tính thuế, bắt nộp thuế là của cơ quan thuế (và cơ quan chức năng liên quan) chứ không phải là của NHTM. Cùng lắm thì chỉ có thể quy định khi có yêu cầu bằng văn bản của cơ quan chức năng (cơ quan thuế, hoặc tòa án…), NHTM phải (và được quyền) thực hiện việc này (trong từng trường hợp cụ thể).
Việc yêu cầu NHTM định kỳ cung cấp thông tin tài khoản của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế cũng là một điều bất hợp lý. Vì ít nhất thì nó cũng là một gánh nặng cho NHTM khi phải định kỳ cung cấp số liệu có trong hàng triệu tài khoản của cá nhân, tổ chức. Nếu muốn theo dõi các giao dịch bất thường thì đã có quy định riêng cho NHTM phải báo cáo các giao dịch loại này cho cơ quan chức năng. Tất nhiên, cùng lắm thì có thể quy định NHTM phải cung cấp thông tin của những tài khoản thuộc diện nghi ngờ, bị theo dõi bởi cơ quan chức năng, chứ không phải của các tài khoản khác.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).