Friday 30 November 2018

Nên chấm dứt hoàn toàn cho vay bằng ngoại tệ (Bài đăng trên TBKTSG, 1/12/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/282192/nen-cham-dut-hoan-toan-cho-vay-bang-ngoai-te-.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN về quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là người cư trú.

Dự thảo này có ba điểm mới liên quan đến vấn đề đô la hóa. Thứ nhất, cho vay ngắn hạn để nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cho nhu cầu trong nước thì được thực hiện đến hết ngày 31-3-2019. Thứ hai, cho vay trung, dài hạn để thanh toán nhập khẩu thì thực hiện đến hết ngày 30-9-2019. Thứ ba, cho vay ngắn hạn để thanh toán chi phí trong nước để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu thì không bị giới hạn về thời gian (trước đây thì quy định là đến hết ngày 31-12-2018).
Như vậy, dự thảo lần này nếu được thông qua sẽ là một bước hiện thực hóa chủ trương hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, từng bước thực hiện lộ trình chuyển dần từ quan hệ huy động - cho vay sang quan hệ mua - bán ngoại tệ của Chính phủ.

Cụ thể hơn, việc cho vay cả ngắn hạn lẫn trung và dài hạn để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu trong nước - về nguyên tắc, là những hoạt động không được khuyến khích vì góp phần tạo thâm hụt thương mại, chèn lấn sản xuất trong nước, gây bất ổn vĩ mô - đã được chặn bằng các mốc thời gian khá gần (tối đa là ba và chín tháng tới, đến hết ngày 30-9-2019). Việc đặt ra các mốc thời gian trên có thể là để các doanh nghiệp nhập khẩu có thời gian thích nghi trước khi việc vay vốn để nhập khẩu cho tiêu dùng trong nước của họ bị chấm dứt hoàn toàn (nếu thông tư này không bị tiếp tục sửa đổi).
Tuy nhiên, mặt khác, việc không giới hạn về thời gian cho vay ngoại tệ để thanh toán chi phí trong nước để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu về bản chất lại đang đi ngược chủ trương chống đô la hóa, và, quan trọng không kém, vẫn tạo ra rủi ro cho sự ổn định của tỷ giá.
Có lẽ do cách hiểu về thước đo đô la hóa ở Việt Nam chỉ là tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trong tổng tiền gửi cá nhân và tổ chức nên mới có quy định nới lỏng như trên. Cần giải thích thêm ở đây là thông tư quy định tiền vay ngoại tệ phải bán lại ngay cho ngân hàng cho vay. Với cách thức này, cơ quan chức năng quan niệm rằng ngoại tệ không được đưa vào lưu thông mà quay trở lại ngay hệ thống ngân hàng (nên không làm tăng tình trạng đô la hóa). 
Thực ra, do mức độ đô la hóa rất khó đo lường trên thực tế nên người ta mới phải lấy thước đo tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ trong tổng số tiền gửi trong nước để làm một chỉ số. Với thước đo này, khi người vay ngoại tệ buộc phải bán lại ngoại tệ vay được cho ngân hàng thì đúng là tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng không tăng tương ứng (vì người vay ngoại tệ không cầm được số ngoại tệ vay được này để gửi vào ngân hàng), do đó không làm tăng tình trạng đô la hóa.
Tuy nhiên, nếu đô la hóa được hiểu trên nghĩa rộng là ngoại tệ được sử dụng thay cho nội tệ trong các giao dịch trong nước thì bản thân việc cho phép ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ cũng đã là một hình thức làm trầm trọng thêm nạn đô la hóa, vì giao dịch cho vay giữa ngân hàng và khách hàng đã thực sự diễn ra bằng ngoại tệ, còn tiền đồng thì bị gạt qua một bên.
Nếu chỉ dừng lại ở mặt câu chữ và ý nghĩa thì tình trạng đô la hóa như đề cập ở trên cũng chưa cho thấy có nguy hại, rủi ro gì. Nhưng hãy hình dung khi người vay không thu được số ngoại tệ đúng như kế hoạch vì những lý do khách quan (ví dụ, đơn hàng xuất khẩu bị ách tắc, hủy bỏ). Khi đến hạn thanh toán khoản vay ngân hàng bằng ngoại tệ, người vay sẽ buộc phải mua ngoại tệ để trả lại cho ngân hàng vì không có nguồn thu bằng ngoại tệ nữa. Điều này gây ra bất ổn về tỷ giá tương tự như khi ngân hàng cho doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa vay để bán trong nước - là mục đích vay hiện nay không còn được phép nữa.
Sự bất ổn về tỷ giá này càng trở nên trầm trọng trong bối cảnh có căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, làm cho doanh nghiệp xuất khẩu tìm mọi cách (lách) găm ngoại tệ lại để bán trong tương lai với tỷ giá cao hơn, còn hiện tại thì sẽ vay tiền đồng để mua ngoại tệ với tỷ giá thấp hơn để tất toán khoản vay.
Do đó, nếu thực sự vì mục tiêu chống đô la hóa và, vì thế, giảm được rủi ro tỷ giá, tăng cường ổn định vĩ mô, thì dự thảo thông tư cũng cần đặt ra mốc thời gian để tiến tới chấm dứt hoàn toàn cho vay bằng ngoại tệ kể cả với doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu.
Tất nhiên là khi chấm dứt cho vay ngoại tệ với doanh nghiệp xuất khẩu (thực chất đây là một hình thức trợ giá cho xuất khẩu) thì doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không còn được hưởng lợi so với các doanh nghiệp khác. Nhưng nếu muốn hỗ trợ các doanh nghiệp này thì có thể áp dụng hình thức cam kết cung ứng (bán) ngoại tệ đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu của họ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong các thời điểm căng thẳng về tỷ giá. Và nếu Chính phủ muốn ưu đãi thêm nữa thì bán với tỷ giá ưu đãi.
Tất nhiên, đổi lại, điều kiện là các doanh nghiệp này phải đã và luôn bán ngoại tệ cho ngân hàng (trước đó). Nhưng lưu ý là làm gì thì làm, cần tránh khả năng bị nước khác cáo buộc chúng ta trợ giá cho xuất khẩu, gồm cho vay ngoại tệ với riêng doanh nghiệp xuất khẩu.
Hình thức chuyển từ cho vay sang bán ngoại tệ trên còn có thể áp dụng ngay với cả doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu xăng dầu. Với những doanh nghiệp này, việc bán ngoại tệ thay vì cho vay càng trở nên cần thiết vì xăng dầu đang (được kỳ vọng) ngày càng phản ánh đúng các điều kiện thị trường, gồm cả tỷ giá và chi phí tài chính (lãi vay).



Wednesday 28 November 2018

Thấy gì từ báo cáo ngân sách dành cho công dân? (Bài đăng trên TBKTSG, 28/11/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/281911/thay-gi-tu-bao-cao-ngan-sach-danh-cho-cong-dan-.html

Bộ Tài chính vừa công bố báo cáo ngân sách dành cho đối tượng người đọc là dân chúng trong một nỗ lực rất đáng ghi nhận của bộ này về việc công bố số liệu về ngân sách. Đáng tiếc là báo cáo này vừa thừa, vừa thiếu, và quan trọng hơn, không cho thấy được đã có những tiến bộ trong tăng thu, giảm chi ngân sách để hướng tới cân bằng ngân sách một cách lành mạnh trong dài hạn.

Thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu
Xin minh họa chuyện thừa thiếu trên qua báo cáo mới nhất là “Báo cáo dự toán ngân sách nhà nước năm 2019” trình Quốc hội.
Trước tiên xin nói về hình thức. Trang 3 của báo cáo nêu một số chi tiết về dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2019. Biểu đồ bên trái cho biết đóng góp cụ thể về giá trị từ bốn nguồn thu ngân sách (nội địa, dầu thô, xuất nhập khẩu, và viện trợ không hoàn lại) tạo nên tổng thu ngân sách nhà nước. Biểu đồ thứ hai về “tổng thu cân đối ngân sách nhà nước” cho thấy cơ cấu tổng thu này từ các nguồn khác nhau (tính theo %).
Trước hết là người dân bình thường có lẽ không hiểu “tổng thu ngân sách” khác với “tổng thu cân đối ngân sách” ra sao, vì vậy, lẽ ra Bộ Tài chính nên có chú giải thêm về hai tiêu chí này.
Tiếp theo, xin nói về nội dung. Không hiểu vì lý do gì mà trên trang web của mình, Bộ Tài chính tuy có đăng tải báo cáo dự toán cho các năm từ năm 2015 đến 2019 nhưng lại không đăng tải báo cáo thực hiện dự toán cho những năm 2015 và 2016. Ở mục “Báo cáo ngân sách nhà nước dành cho công dân” cũng không có một số liệu nào về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước qua các năm, mới là cái mà dư luận quan tâm hơn.
Chưa hết, đối với tình hình thực hiện của năm 2017, là năm duy nhất có báo cáo đầy đủ cho thực hiện cả năm, số liệu đưa ra cũng như “đánh đố” người đọc. Bảng dưới đây tập hợp một số số liệu chính từ báo cáo dự toán và báo cáo thực hiện của năm 2017.
Những số liệu cần thiết như tốc độ tăng của thực hiện dự toán hay tình hình cải cách biên chế thể hiện qua con số chi cải cách tiền lương năm 2017 lại “vô tình” thiếu vắng trong bảng trên. Hơn nữa, nếu cộng ba cấu thành chính của thực hiện tổng chi ngân sách (chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, và chi trả nợ) thì được con số là 1.370, thấp hơn mức tổng chi thực hiện (1.461,8) tới 91.400 tỉ đồng (bằng 6,2% tổng chi thực hiện), và không rõ là con số này đã đi đâu. Đây chính là lý do cho việc mặc dù tổng chi ngân sách thực hiện tăng tới 5,1% so với dự toán nhưng cả ba cấu thành của tổng chi thực hiện lại chỉ tăng với mức thấp hơn nhiều, tạo cảm giác mọi thứ đều tốt đẹp, trong khi thực tế đã có một khoản chi nào đó rất quan trọng đã bị giấu đi.
Qua một số ví dụ trên có thể rút ra là nội dung thông tin về nguồn thu ngân sách không có mấy tác dụng, có đọc đến cũng chỉ biết vậy, không thể rút ra được so sánh hay liên hệ có ý nghĩa.
Không thấy chuyển biến tích cực, rõ nét
Mục tiêu xuyên suốt của ngân sách nhà nước trong các năm từ 2015 (là năm đầu tiên có báo cáo được công khai trên trang web của Bộ Tài chính) đến năm mới nhất là 2019 có những mục tiêu giống nhau, cụ thể là: huy động, quản lý, sử dụng các nguồn tài chính hiệu quả; từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước...
Quả thật, dự toán thu chi ngân sách do 
Bộ Tài chính công bố cũng đã cố gắng thể hiện những mục tiêu này, như được thể hiện qua bảng.
Theo đó, về nguồn thu, tỷ trọng thu nội địa có xu hướng tăng lên rõ rệt, đảm bảo thu ngân sách nhà nước có tính bền vững hơn. Về chi, tỷ trọng chi đầu tư phát triển cũng có xu hướng tăng lên, ngược lại với chi thường xuyên, cũng nhằm đảm bảo tính bền vững về sức khỏe của ngân sách.
Tuy nhiên, như đã nói, do mới chỉ có báo cáo thực hiện thu chi ngân sách cả năm cho duy nhất năm 2017 nên ta không thể đi đến kết luận rằng những mục tiêu trên đã được hiện thực hóa trên thực tế.
Một điều đáng lưu tâm là qua một số báo cáo đây đó của các cơ quan chức năng có thể thấy một phần rất đáng kể của thu ngân sách là có nguồn gốc từ vay nợ trong và ngoài nước. Bản thân hạng mục chi đầu tư phát triển cũng có một phần đáng kể vốn có nguồn gốc từ vay nợ(1). Nói cách khác, dù tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách có vẻ như đã tăng nhưng sự gia tăng này có được là nhờ vốn đi vay chứ không phải là vốn tích lũy nội bộ. Trong khi đó, tuy chi thường xuyên có giảm về tỷ trọng nhưng về con số tuyệt đối vẫn đang tiếp tục tăng, dù trên thực tế cần phải đạt được điều ngược lại.
Rất đáng tiếc là những điều này lại không được phản ánh trong các báo cáo dự toán (và thực hiện) ngân sách nhà nước của Bộ Tài chính, làm cho những mục tiêu mà bộ này đề ra trong báo cáo, như đã nêu, không có nhiều ý nghĩa. Có thể biện hộ rằng vì là báo cáo cho công dân nên cần phải “đơn giản, dễ hiểu” để lấy đó làm lý do cho sự tồn tại của những bất cập nêu trên, nhưng ngay cả những báo cáo khác mà bộ này công bố trên trang web của mình cũng không khá gì hơn.
Tóm lại, tuy Bộ Tài chính đã có cố gắng công khai số liệu về ngân sách nhà nước, đặc biệt đến người dân, nhưng do cung cách công khai cũng như một số bất cập về nội dung, nên việc công khai này hầu như ít tác dụng trong việc giúp người dân (và cả giới chuyên gia) hiểu rõ được điều gì đang thực sự xảy ra với ngân sách và tương lai ngân sách sẽ đi về đâu.
(1) https://www.thesaigontimes.vn/280989/ky-luat-ngan-sach-nha-nuoc-con-long-leo.html

Sunday 25 November 2018

Làm đường sắt cao tốc Bắc Nam: Nói bao giờ chẳng hay! (Bài đăng trên TBKTSG, 25/11/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/td/281907/lam-duong-sat-cao-toc-bac-nam-noi-bao-gio-chang-hay.html

Qua vài lần đề xuất rồi bị hủy bỏ, mới đây một lần nữa dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam lại được Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) lên kế hoạch trình Quốc hội trong năm 2019. Theo dõi, tổng hợp các thông tin liên quan, có thể thấy dường như đang có một lỗ hổng lớn trong tư duy của những người có trách nhiệm liên quan đến dự án này.

Những lý lẽ bảo vệ dự án
Như thường lệ, dự án này được bên tư vấn và cả những người có liên quan đưa ra với những ý nghĩa to lớn như giúp rút ngắn thời gian đi lại, phát triển các trung tâm đô thị mới và khiến dòng di dân thay đổi dọc theo tuyến cao tốc, khiến phân bổ dân cư và sự chia sẻ văn hóa vùng miền tốt hơn; giá trị sử dụng đất ở các địa phương có tuyến đường sắt đi qua tăng lên, làm tăng GDP; giảm chi phí logistics, giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường... Thậm chí có người còn cao hứng nói rằng dự án này sẽ giúp đi tắt đón đầu vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0!
Chuyện quan trọng nhất là sẽ phải bỏ ra hơn 58 tỉ đô la Mỹ để làm đường sắt này thì đã được “đẩy nhẹ nhàng” sang cho Nhà nước gánh vác phần lớn, với lý do là dự án xây dựng cơ sở hạ tầng nên Nhà nước phải chịu trách nhiệm về khả năng hoàn vốn.
Bộ GTVT cũng khẳng định đã có lộ trình thực hiện dự án, từ đào tạo nhân lực, hình thành các đơn vị đầu mối hạ tầng (tương tự như của tuyến đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông)...
Nói hay, nhưng thiếu thực tế
Những ý nghĩa tích cực của dự án đường sắt với kinh tế và xã hội nói trên hoàn toàn không sai.
Chuyện Nhà nước phải gánh vác phần lớn chi phí xây dựng cũng... không sai, đơn giản là vì Nhà nước khởi sự thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm phần lớn, nếu không muốn dự án bị treo, hoặc dở dang vô thời hạn.
Bộ GTVT với tư cách là đầu mối chủ chốt trình và thực hiện dự án tin tưởng hoàn toàn vào khả năng cũng như lộ trình thực hiện mà họ xây dựng cũng không sai, đơn giản bởi họ là người “vẽ” ra thì phải nói cho hay để thuyết phục, làm yên lòng Quốc hội là nơi sẽ phê duyệt dùng tiền thuế của dân thực thi dự án này.
Cái gì cũng tỏ ra đúng, hợp lý, nhưng vẫn có vấn đề, mà là vấn đề cốt tử, chưa được tính toán kỹ lưỡng. Bộ GTVT đệ trình dự án đường sắt cao tốc trong bối cảnh cơ quan này cũng đã, đang và sẽ đệ trình hay thực hiện nhiều dự án “khủng” khác, cái nào cũng lên đến hàng tỉ đô la. Họ cũng “quên” rằng ngoài họ thì nhiều cơ quan trung ương và địa phương cũng đang có nhiều dự án to nhỏ khác nhân danh đầu tư phát triển, thúc đẩy kinh tế, xã hội, tăng trưởng GDP vùng, miền và cả nước... mà xem ra là không thể thiếu đi cái nào.
Mọi chuyện xem ra sẽ là bình thường, chẳng có gì đáng nói nếu ngân sách nhà nước là “bao la”, việc chi tiêu không cần phải so đo, tính toán. Đáng tiếc là điều này chưa bao giờ và sẽ khó mà xảy ra đối với Việt Nam. Ngược lại, bài toán khó hiện nay là giữ cho nợ công đang mấp mé ngưỡng mà tự chúng ta đặt ra và phấn đấu để... không vượt mức này. Nên mỗi khi có thêm một tỉ đô la đầu tư nào đó thì chắc chắn sẽ phải cắt giảm đầu tư, chi tiêu ở đâu đó, nếu không muốn bị bủa vây trong nợ nần và phá sản.
Bởi vậy, dù các bộ, ngành, địa phương có đề xuất thì Quốc hội trước khi phê duyệt dự án nào đó phải thực tâm mà cân nhắc với tinh thần của người nắm “tay hòm chìa khóa” trong một gia đình nghèo, không thể chạy đua theo hàng xóm, dù biết rằng có cái nhà mới, có cái ô tô thì rõ ràng sẽ “sướng” hơn, tiện hơn, sang hơn.
Hơn thế nữa, hãy nhìn vào dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông để rút ra những bài học “để đời”. Liệu những người có trách nhiệm phê duyệt đề án đường sắt cao tốc Bắc Nam có quên việc dự án Cát Linh - Hà Đông đã chậm trễ bao nhiêu năm, đội vốn bao nhiêu lần, chất lượng đáng nghi ngại như thế nào, tương lai sẽ đi về đâu...? Một dự án “con con” như vậy, nếu so với dự án đường sắt cao tốc, mà làm mãi chưa xong, bất chấp mọi quyết tâm với nỗ lực, với “chỉ đạo sát sao, quyết liệt”, thậm chí có cả sự hợp tác của cả các Chính phủ liên quan, thì tương lai của dự án đường sắt cao tốc quả là đáng lo.
Bài học nhãn tiền
Không đâu xa, Việt Nam cũng có thể tham khảo kinh nghiệm từ trường hợp của dự án đường sắt cao tốc Kuala Lumpur - Singapore. Đây là tuyến đường sắt dài 350 ki lô mét có tổng vốn đầu tư ước tính là 12-15 tỉ đô la Mỹ (theo www.channelnewsasia.com), dự kiến khởi công năm 2019 và hoàn thành năm 2026, nối Singapore với thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia trong hành trình 90 phút. Dự án này được nguyên Thủ tướng Malaysia Najib Razak và Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long công bố năm 2010, chính thức đồng ý triển khai năm 2013 và dự kiến hoàn thành năm 2026.
Tuy nhiên, đến tháng 6 năm nay, sau chiến thắng bất ngờ trong cuộc bầu cử Thủ tướng tại Malaysia, tân Thủ tướng Mahathir Mohamad tuyên bố sẽ xóa bỏ dự án này với lý do là lợi ích của dự án thì không lớn trong khi chi phí cho nó lại quá lớn.
Dẫu vậy, trong chuyến thăm Nhật ngày 12-6-2018, ông Mahathir lại tuyên bố dự án sẽ không bị xóa bỏ mà chỉ bị trì hoãn do chi phí cao (theo www.channelnewsasia.com ngày 5-9-2018, Malaysia phải bồi thường cho Singapore 15 triệu đô la Singapore do việc ngừng dự án. Tuy nhiên, cả Singapore và Malaysia hy vọng là dự án này sẽ được đi vào hoạt động vào đầu năm 2031).
Ngoài dự án đường sắt trên, ông Mahathir còn rà soát, cân nhắc lại hàng loạt dự án thuộc dạng “siêu” khác, đều xuất phát từ áp lực tài chính lên ngân khố quốc gia vốn đang phải dựa ngày càng nhiều vào vay nợ nước ngoài.
Điều có thể rút ra được ở đây là người có trách nhiệm và nặng lòng với đất nước không bao giờ muốn “vung tay quá trán”, nhìn xa hơn về những hậu quả có thể để lại cho thế hệ con cháu để sử dụng ngân sách hiệu quả nhất, kịp thời có những hành động sửa sai (của những người khác) dù phải trả giá đắt ở thời điểm hiện tại.

Thursday 22 November 2018

Sẽ có phép màu xảy ra với lãi suất? (Bài đăng trên CafeF, 23/11/2018)

http://cafef.vn/se-co-phep-mau-xay-ra-voi-lai-suat-20181123090820411.chn

Càng đến thời điểm cuối năm thì áp lực lãi suất cho không chỉ tiền gửi mà cả cho vay càng tăng cao đáng kể. Trước xu hướng này, nhiều doanh nghiệp và người tiêu dùng tỏ ra lo lắng vì chi phí kinh doanh sẽ bị đội lên đáng kể khi lãi suất cho vay tăng so với trước đây. 

Trước tiên, cần khẳng định luôn rằng sẽ chẳng có phép màu nào xảy ra để lãi suất (cho vay) không tăng hoặc tăng không đáng kể, chứ chưa dám nói là sẽ hạ đi.
Tiếp đó, nếu lãi suất thực sự sẽ tăng lên thêm nữa trong những tuần tới, tháng tới, thì đó là điều tất yếu, đã được dự báo từ trước cả năm nay. Các doanh nghiệp chưa kịp thích nghi với xu hướng này nên tự trách mình vì đã không coi trọng những dự đoán và cảnh báo về xu hướng lãi suất tăng để có những điều chỉnh cần thiết trong chiến lược kinh doanh của mình, thay vì đổ lỗi cho ai đó hoặc kêu gọi nhà nước giảm lãi suất hoặc có những biện pháp hỗ trợ cho mình.
Những dấu hiệu cảnh báo một mặt bằng lãi suất năm nay và sang năm sau sẽ chỉ có thể gia tăng chứ khó có thể đứng yên hoặc giảm đi so với năm trước thực ra đã xuất hiện từ khá sớm.
Đó là việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra định hướng điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có mục tiêu tăng trưởng tín dụng cho năm nay ngay từ cuối năm trước. Theo đó, tăng trưởng tín dụng cả năm nay sẽ thấp hơn so với 2017 (16%-17% hoặc thấp hơn). Phương châm điều hành "thận trọng và linh hoạt" được cơ quan này nhấn mạnh xuyên suốt cả năm nay (và năm trước) đã tỏ ra không phải là câu nói trên giấy mà đã được thể hiện rõ qua tốc độ tăng trưởng tín dụng khá chậm so với dư địa được phép, với nhiều ngân hàng đã gần hết "room" tăng trưởng tín dụng mà không được NHNN cho phép mở rộng.
Yếu tố nền tảng quyết định xu hướng lãi suất – (hạn mức) tăng trưởng tín dụng, tức liên quan đến cung tiền – đã bị hạn chế như vậy thì lãi suất cho vay có cơ may đứng nguyên hoặc hạ đi chỉ khi nào nhu cầu tín dụng cũng chậm lại tương ứng. Đáng tiếc là điều này đã không xảy ra, bởi một thực tế hiển nhiên là GDP vẫn (được dự đoán) tiếp tục tăng trưởng, thậm chí ở mức cao so với những năm gần đây. Nói cách khác, lãi suất cả huy động lẫn cho vay đang chịu áp lực gia tăng lớn giữa một bên là cầu tín dụng đang tăng mạnh và cung tín dụng thì lại thắt chặt hơn.
Vậy thì, đến đây, sẽ có nhiều người, nhiều doanh nghiệp chất vấn và yêu cầu NHNN với tư cách là người "cầm trịch" cung cầu tín dụng phải nới lỏng cung tiền để "gỡ kẹt" cho lãi suất và tức là "cứu nguy" cho cả nền kinh tế.
Nhưng đứng ở góc độ NHNN, một cơ quan quản lý nhà nước đang phải gánh quá nhiều trách nhiệm và sứ mạng, họ buộc phải duy trì một chính sách "linh hoạt" – thực ra có nghĩa là mang tính ngắn hạn, theo phương châm "tùy cơ ứng biến" – và hy sinh mỗi mục tiêu một chút, không để cho mục tiêu nào quá xấu.
Cụ thể, do tỷ giá là một bài toán hóc búa và luôn được nhìn nhận là một thước đo sự ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam từ cả góc độ trong và ngoài nước, rõ ràng là NHNN không thể buông bỏ tỷ giá hay để nó tăng quá mạnh và gấp gáp. Nhưng không chỉ đúng với NHNN mà còn đúng với bất cứ ngân hàng trung ương nào trên thế giới, sẽ là thách thức lớn để khống chế tỷ giá trong phạm vi "ổn định" mong muốn trong bối cảnh cực kỳ bất lợi như chiến tranh thương mại và tiền tệ, Fed gia tăng lãi suất cơ bản tại Mỹ, và lạm phát trong nước đang có xu hướng gia tăng theo đà tăng của hàng hóa thế giới, trong khi dự trữ ngoại hối quốc gia chỉ ở mức an toàn tối thiểu (đó là tính đến thời điểm đầu năm nay).
Chịu các tác động bất lợi như nói trên mà tỷ giá VND/USD chỉ tăng ở mức 3-4% so với cùng kỳ năm trước về mặt nào đó có thể coi là một thành công của NHNN. Nhưng điều này không tự nhiên và dễ dàng có được, mà cũng chẳng phải là kết quả của một phép màu nào hay khả năng điều hành vượt bậc của NHNN thoát ra khỏi các hình mẫu ngân hàng trung ương thông thường trên thế giới.
Thực tế, nền kinh tế đã phải trả một cái giá nhất định khi NHNN thực thi chính sách "linh hoạt" để cả lạm phát, lãi suất, và tỷ giá cùng tăng, mỗi thứ một ít.
Tỷ giá "chỉ" gia tăng khá chừng mực như vậy là do được đánh đổi bằng lãi suất, ít nhất là trên thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động đều tăng, tạo thành xu hướng không thể đảo ngược. Như thường lệ, trước áp lực ngày càng gia tăng lên tỷ giá, đã có không ít doanh nghiệp và cả chuyên gia lẫn người dân lo ngại và phản đối chuyện phá giá/điều chỉnh giảm giá VND thì chuyện lãi suất gia tăng là tất yếu.
Lãi suất cũng được chọn để "hy sinh" trong chừng mực nhất định nhằm kiềm chế áp lực gia tăng lạm phát vốn đang mấp mé chỉ tiêu Quốc hội giao cho Chính phủ thực hiện. Ở phương diện này cũng khó có một công cụ nào thay thế mang tính bền vững hơn. Chính phủ đã cố gắng thi hành những chính sách mang tính hành chính để kiềm chế giá cả, nhưng những chính sách này chỉ mang tính tạm thời, không thể áp dụng từ quý này sang quý kia và rồi khi ngừng lại thì sẽ tạo ra những bước "nhảy cóc" mới trong chỉ số giá tiêu dùng CPI.
Tóm lại, cần hiểu một cách đơn giản rằng trong bối cảnh nguồn lực quốc gia có hạn, còn các bất lợi bên ngoài thì đã và đang tiếp diễn ngày càng bất lợi, lãi suất tăng sẽ là chuyện không thể tránh khỏi, do vậy doanh nghiệp cần có những điều chỉnh để chủ động về kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình.

Nhân danh quản lý, ngành thuế đang đòi hỏi quá nhiều từ ngân hàng (Bài đăng trên CafeF, 22/11/2018)

http://cafef.vn/chuyen-gia-nhan-danh-quan-ly-nganh-thue-dang-doi-hoi-qua-nhieu-tu-ngan-hang-20181122115509923.chn

Một trong những điểm đáng chú ý về dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) là quy định buộc ngân hàng cung cấp số tài khoản có gắn với mã số thuế của khách hàng. Quy định này đã được sửa lại từ quy định trong dự thảo trước đó yêu cầu ngân hàng phải cung cấp số dư tài khoản, thông tin giao dịch của tài khoản. 

Theo giải thích của Tổng cục thuế, mục đích quy định ngân hàng cung cấp số tài khoản có gắn với mã số thuế của khách hàng là để quản lý thuế tốt hơn, đảm bảo thu đúng, thu đủ tiền thuế cho ngân sách nhà nước. Theo Tổng cục thuế, ví dụ trong trường hợp người nộp thuế nợ thuế đến mức phải cưỡng chế chẳng hạn, cơ quan thuế sẽ phải thực hiện các biện pháp phong tỏa tài khoản hay trích tiền từ tài khoản. Thực tế, một người có thể mở tài khoản tại rất nhiều ngân hàng, mà nếu không có thông tin tài khoản của họ thì không thể thu được thuế với trường hợp trây ỳ, cố tình trốn thuế.
Cũng theo Tổng cục thuế, qua tham khảo kinh nghiệm của các nước, hầu hết đều quy định ngân hàng cung cấp số tài khoản của khách hàng gắn với mã số thuế của người nộp thuế cho cơ quan thuế. Còn ở nước ta thì chỉ thực hiện khi cơ quan thuế yêu cầu. Hay với những trường hợp có dấu hiệu rủi ro về thuế, ngân hàng cũng cung cấp các giao dịch thanh toán của người nộp thuế.
Những lý giải trên của Tổng cục thuế, theo tác giả, có cái đúng, cái sai, bất hợp lý.
Trước hết, việc quản lý thuế thế nào cho tốt là nhiệm vụ và trách nhiệm riêng của ngành thuế. Về nguyên tắc, ngành thuế không được phép nhân danh việc này để làm khó cho những ngành khác, những đơn vị kinh tế và công dân. Điều này cũng tương tự, cũng áp dụng cho tất cả các cơ quan công quyền khác của nhà nước. Dù họ đều hoạt động vì mục đích công (của nhà nước), nhưng không vì thế mà họ được quyền làm phiền, làm khó những người khác một cách không thỏa đáng.
Từ nguyên tắc trên, ngành thuế không được đòi hỏi ngân hàng phải cung cấp số tài khoản có gắn với mã số thuế của toàn bộ khách hàng của ngân hàng. Yêu cầu này là không thỏa đáng (cả trên lý thuyết lẫn thực tế, như nói thêm dưới đây) nên cần phải loại bỏ khỏi dự thảo luật (sửa đổi).
Tuy nhiên, yêu cầu ngân hàng cung cấp số tài khoản gắn với mã số thuế của khách hàng có thể được chấp nhận, có thể là hợp lý trong một số trường hợp ngoại trừ mà Tổng cục thuế đã nêu, ví dụ trong trường hợp phải cưỡng chế thuế.
Như vậy, thay vì phải cung cấp hàng triệu số tài khoản với mã số thuế của khách hàn, ngân hàng chỉ phải cung cấp thông tin này của một số lượng nhất định khách hàng "có vấn đề". Điều này không chỉ là giảm phiền hà, tốn kém cho ngân hàng mà, quan trọng hơn, đảm bảo tính bảo mật thông tin của ngân hàng – một yêu cầu cơ bản và thiết yếu với mọi hệ thống ngân hàng.
Liên quan đến chuyện bảo mật thông tin ngân hàng, Tổng cục thuế cho rằng "hầu hết (các nước) đều quy định" ngân hàng cung cấp số tài khoản của khách hàng gắn với mã số thuế là không hoàn toàn chính xác. Ngay trong khu vực, Singapore, một nước không khoan nhượng với các hoạt động tội phạm liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế, rửa tiền nhằm mục đích giữ cho nước này luôn duy trì được vị thế là một trung tâm tài chính toàn cầu uy tín, không hề có điều luật nào tương tự như điều luật mà Tổng cục thuế Việt Nam đang dự thảo đưa vào luật.
Cụ thể, chuyện bảo mật ngân hàng ở Singapore được quy định ở phần 47 của Luật Ngân hàng (chương 19). Theo đó, các ngân hàng thành lập ở Singapore hoặc có chi nhánh ở Singapore không được phép tiết lộ bất cứ "thông tin khách hàng" nào cho bất cứ người nào khác ngoài những trường hợp ngoại trừ. Thông tin khách hàng được định nghĩa là mọi chi tiết cá nhân của người chủ tài khoản, và, ví dụ, loại tài khoản (tiền gửi, tiền vay, hay đầu tư). Những trường hợp ngoại trừ là khi cảnh sát hoặc một cơ quan công quyền hoặc tòa án gửi yêu cầu thu nhập thông tin cho mục đích điều tra hay công tố.
Như vậy, đối chiếu với quy định của Singapore, có thể thấy ngân hàng về nguyên tắc không phải tự động cung cấp (tất cả) thông tin của (tất cả) khách hàng cho bất cứ ai, kể cả cơ quan công quyền. Tuy có ngoại lệ, nhưng ngoại lệ này chỉ được phép khi cơ quan công quyền phải có văn bản yêu cầu, và chỉ để phục vụ mục đích điều tra, công tố, chứ không phải là mục đích khác, ví dụ như cứ biết để đấy, khi nào cần thì lấy ra sử dụng như cách hiểu và áp dụng ở Việt Nam. Thông lệ/quy định luật mang tính quốc tế này cũng đã được áp dụng ở Việt Nam, như thế là đủ, sao Tổng cục thấy chưa đủ, cần phải "tăng cường" thêm?
Tổng cục thuế có thể có lý khi cho rằng nếu không nắm được thông tin gì của khách hàng ngân hàng (khi chưa có/chưa phát hiện ra vấn đề, ví dụ, nghi vấn trốn thuế, rửa tiền) thì khó mà quản lý thuế một cách hiệu quả theo nghĩa là không kịp thời phát hiện ra những hành động gian lận, trốn thuế… Nhưng kể cả có quan ngại này (và quan ngại này không chỉ có ở Việt Nam) thì nó hoàn toàn có thể giải quyết theo cách khác, hợp pháp và hợp lý hơn.
Đó là việc yêu cầu các ngân hàng phải báo cáo cho cơ quan chức năng toàn bộ các giao dịch nghi ngờ, có vấn đề. Đây là quy định cơ bản, thiết yếu trong hầu hết các luật ngân hàng ở các nước trên thế giới. Theo một khảo sát của OECD với các quốc gia thành viên thì tất cả các nước mà họ khảo sát đều bắt buộc các ngân hàng sở tại thực thi điều khoản này.  Nếu thực thi tốt điều khoản này thì ngành thuế (phối hợp với cơ quan thanh tra, giám sát của ngành ngân hàng) hoàn toàn có thể đạt được mục đích quản lý thuế của mình mà không phải đưa ra những đòi hỏi không thỏa đáng về cung cấp thông tin khách hàng như trong dự thảo.
Tóm lại, việc buộc các ngân hàng cung cấp số tài khoản và mã số thuế khách hàng rõ ràng là tiện lợi và tốt cho ngành thuế nhưng lại không tiện lợi cho và xung đột với các quy định riêng (hoàn toàn hợp pháp và hợp lý) của ngành ngân hàng. Do đó, ngành thuế cần bỏ quy định này trong dự thảo Luật Quản lý thuế.

Wednesday 21 November 2018

Moody's "hạ" triển vọ ng của hệ thống ngân hàng Việt Nam là... bình thường (Bài đăng trên CafeF, 21/11/2018)

http://cafef.vn/moodys-ha-trien-vong-cua-he-thong-ngan-hang-viet-nam-labinh-thuong-20181121072400233.chn

Ngày 8/11/2018, hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s đã điều chỉnh triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam thành mức “ổn định” từ mức “tích cực”.
Về hành động này, nhiều người cho rằng Moody’s đã có sự nhìn nhận kém tích cực hơn về hệ thống ngân hàng Việt Nam, thể hiện sự sút giảm so với trước đây. Thực ra, vấn đề ở đây hết sức bình thường và logic, hoàn toàn không có gì nói lên rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam đang kém (tích cực) đi.
Trước tiên, cần lưu ý rằng trong vòng 2 năm qua, 2017-2018, Moody’s đã có 3 lần điều chỉnh liên quan đến hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Lần thứ nhất là vào ngày 31/10/2017. Trong lần này, Moody’s nâng triển vọng của hệ thống ngân hàng lên thành mức "tích cực" từ mức "ổn định". Thời điểm đó, 15 ngân hàng thương mại Việt Nam mà Moody’s tiến hành đánh giá tín nhiệm có mức xếp hạng tín nhiệm cao nhất là B1, bằng với hạn tín nhiệm quốc gia của Việt Nam.
Lần thứ hai Moody’s có hành động đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam là vào ngày 14/8/2018. Trong lần điều chỉnh này, Moody’s nâng hạng tín nhiệm một loạt trong số 14 ngân hàng mà tổ chức này xếp hạng.
Cụ thể, Moody’s nâng hạng tín nhiệm cho tiền gửi nội tệ, ngoại tệ, và nhà phát hành cho 3 ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước là Vietcombank, VietinBank và BIDV và 5 ngân hàng TMCP không có vốn nhà nước gồm ABB, Liên Việt, TPBank, VIB và VP Bank. Moody’s cũng nâng hạng tín nhiệm cho tiền gửi ngoại tệ dài hạn đối với 3 ngân hàng TMCP là ACB, MB và Techcombank. Đồng thời, Moody’s nâng hạng rủi ro đối tác (CRR) và đánh giá rủi ro đối tác (CRA) dài hạn đối với VietinBank, BIDV, SHB, HDBank và OCB.
Hãng này cũng thay đổi triển vọng tiền gửi nội tệ và triển vọng nhà phát hành nội tệ và ngoại tệ xuống "ổn định" từ mức "tích cực" cho 8 ngân hàng gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank, ABB, Liên Việt, TPBank, VIB và VP Bank.
Lưu ý thêm là, như được nêu rõ trong thông cáo báo chí, Moody’s nâng hạng tín nhiệm của nhiều ngân hàng TMCP của Việt Nam ngày 14/8/2018 vì trước đó mấy ngày (10/8/2018) họ cũng mới nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ B1 lên Ba3 và "hạ" triển vọng xếp hạng tín nhiệm từ "tích cực" xuống "ổn định".
Và lần điều chỉnh gần đây nhất của Moody’s là vào ngày 8/11/2018 như đã nêu ở trên.
Xâu chuỗi các hành động này lại ta có thể thấy Moody’s làm việc rất "đúng quy trình". Trước hết, cần hiểu rằng, thông thường, để các hãng xếp hạng tín nhiệm nâng hạng tín nhiệm của một thực thể kinh tế nào đó thì bước đi cần thiết là thực thể đó phải có được triển vọng xếp hạng là "tích cực", được điều chỉnh lên từ triển vọng "ổn định" trước đó. Và khi có một bước ngoặt nào đó xảy ra, chẳng hạn như kết quả kinh doanh trong những năm trước liên tục cải thiện, đáp ứng được các tiêu chí xếp hạng ở mức cao hơn thì các hãng xếp hạng sẽ tiến hành điều chỉnh nâng hạng của thực thể này lên tương ứng.
Một khi đã được nâng hạng rồi thì triển vọng nâng hạng trong tương lai, ít nhất là sau 12-24 tháng, cần phải được quay trở về mức bình thường, tức "ổn định", trước khi hãng xếp hạng tín nhiệm lại nhìn thấy có nhiều yếu tố thuận lợi hoặc bất lợi mới để họ một lần nữa điều chỉnh nâng triển vọng từ "ổn định" lên "tích cực" hoặc hạ xuống "tiêu cực" tùy thuộc điều kiện thực tế, và lấy đó làm cơ sở hỗ trợ cho việc điều chỉnh mức xếp hạng cao hơn hoặc thấp hơn tương ứng của thực thể này trong tương lai.
So sánh với quy trình điều chỉnh hạng mức tín nhiệm và triển vọng nói trên, có thể thấy Moody’s trước khi nâng hạng tín nhiệm cho các ngân hàng Việt Nam thì họ đã điều chỉnh nâng triển vọng cho hệ thống ngân hàng Việt Nam lên "tích cực" từ "ổn định" vào ngày 31/10/2017.
Sau khi nâng triển vọng cho hệ thống ngân hàng Việt Nam rồi thì Moody’s tiến hành nâng hạng tín nhiệm của một số trong các ngân hàng mà họ xếp hạng, cụ thể là vào ngày 14/8/2018, như đã nêu ở trên. Lưu ý thêm là sau khi họ nâng hạng tín nhiệm của một số ngân hàng thì đồng thời họ lại điều chỉnh "hạ" triển vọng của những ngân hàng này về "ổn định", chứ không phải là "tích cực" như trước đó nữa, theo đúng quy trình nói ở đoạn trên.
Do nhiều trong số ngân hàng Moody’s xếp hạng đã được nâng hạng tín nhiệm, và do Moody’s cũng đã "hạ" triển vọng của các ngân hàng này, nên chắc chắn sẽ cần một lần điều chỉnh chính thức nữa cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Lần đó chính là vào ngày 8/11/2018 vừa qua, theo đó triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam trở về mức "ổn định" từ mức "tích cực" có từ tháng 10/2017 như đã phân tích.
Tóm lại, việc điều chỉnh hạng tín nhiệm và triển vọng của Moody’s với hệ thống ngân hàng Việt Nam cần được nhìn nhận một cách bình thường, không nhất thiết phản ánh sự tốt lên hay xấu đi của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cụ thể hơn, việc nâng hạng tín nhiệm của nhiều trong số 14 ngân hàng TMCP vào ngày 14/8 chẳng qua chỉ là một hành động "ăn theo" của hành động mà Moody’s nâng hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ B1 lên Ba3 và hạ triển vọng xếp hạng tín nhiệm từ "tích cực" xuống "ổn định", chứ không nhất thiết phản ánh rằng sức khỏe của các ngân hàng này đã được cải thiện đáng kể.
Việc hạ triển vọng của hệ thống ngân hàng từ "tích cực" xuống "ổn định" ngày 8/11 vừa qua cũng chỉ là một hành động "chính thức hóa" hành động hạ triển vọng tín nhiệm của nhiều ngân hàng TMCP mà Moody’s thực hiện trước đó trong tháng 8. Hành động này cũng không nhất thiết phản ánh triển vọng sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã/đang kém tích cực đi.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).