Thursday 31 January 2019

Xuất siêu hay nhập siêu không do Bộ Công Thương quyết (Bài đăng trên TBKTSG, 31/1/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/284566/xuat-sieu-hay-nhap-sieu-khong-do-bo-cong-thuong-quyet-.html

 Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của ngành công thương ngày 17-1, Bộ Công Thương dự kiến xuất khẩu đạt khoảng 265 tỉ đô la Mỹ (tăng khoảng 8-10% so với năm 2018), còn nhập khẩu khoảng 268 tỉ đô la Mỹ (tăng khoảng 11,7% so với năm 2018).
Như vậy, thay vì xuất siêu liên tiếp như vài năm trở lại đây, Việt Nam được dự báo sẽ nhập siêu khoảng 3 tỉ đô la Mỹ trong năm nay.
Thủ tướng không chấp nhận con số 3 tỉ đô la Mỹ
Lý giải cho dự báo này, Bộ Công Thương cho rằng nhập khẩu sẽ tăng cao bởi xuất khẩu được dự báo tiếp tục duy trì tăng trưởng, đặc biệt là ở những ngành hàng mà Việt Nam còn phụ thuộc vào nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, linh kiện phụ tùng của nước ngoài. Do vậy, dự báo nhập khẩu nhóm hàng này tiếp tục tăng.
Ngoài ra, với việc thực thi các FTA mới, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), sẽ tạo ra làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam của các doanh nghiệp trong và ngoài nước để tận dụng cơ hội từ các thị trường này. Việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị phục vụ cho các dự án và mua nguyên vật liệu cho sản xuất sẽ gia tăng...
Một số lý do khác cũng được viện dẫn ra như giá xuất khẩu nông sản và sản lượng xuất khẩu nông sản không thuận lợi, cạnh tranh tăng lên từ các nước xuất khẩu khác, các nước nhập khẩu tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe...
Phát biểu tại hội nghị nói trên, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho rằng Bộ Công Thương đặt mức nhập siêu 3 tỉ đô la Mỹ trong năm 2019 là không thể chấp nhận được sau ba năm liên tục xuất siêu với con số ấn tượng (nguồn: baodientu.chinhphu.vn ngày 17-1). Trước ý kiến của Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã tiếp thu và trình bày rằng kế hoạch đã đặt ra rồi nên bộ xin không sửa nữa nhưng mục tiêu của ngành vẫn luôn cố gắng vượt trên kế hoạch đã đặt ra.
Xuất siêu hay nhập siêu không dễ dự báo
Trước tiên có thể nói Bộ Công Thương đã mạnh dạn đưa ra một con số dự báo cụ thể cho một vấn đề cực kỳ phức tạp được quyết định bởi nhiều yếu tố trong và ngoài tầm kiểm soát của Việt Nam.
Nhìn chung, những lý do mà họ đưa ra để dự báo mức nhập siêu 3 tỉ đô la Mỹ hoàn toàn mang tính định tính. Ví dụ, đúng là xuất khẩu tăng sẽ kéo theo nhập khẩu tăng. Nhưng do chi phí nhập khẩu chỉ là một cấu thành trong giá thành và giá xuất khẩu nên xuất khẩu tăng về nguyên tắc sẽ không tạo ra nhập siêu vì giá trị xuất khẩu một mặt hàng nào đó thường luôn lớn hơn giá trị nhập khẩu các nguyên vật liệu tạo ra sản phẩm đó (nói cách khác, không doanh nghiệp nào lại “dại dột” sản xuất và xuất khẩu một sản phẩm nào đó với giá thấp hơn giá mua nguyên vật liệu).
Tương tự, dù có làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam để tận dụng cơ hội FTA mới dẫn đến nhập khẩu tăng, nhưng ở chiều ngược lại, các FTA mới này cũng làm tăng nhu cầu nhập khẩu của các nước đối tác với hàng hóa khác của Việt Nam bởi thuế quan với hàng loạt hàng hóa sẽ được giảm song phương theo nguyên tắc “có đi có lại”, kết quả là cán cân thương mại tổng thể của Việt Nam có thể không nhất thiết nghiêng về phía nhập siêu.
Hoặc với lý do là giá và lượng xuất khẩu cũng như sự cạnh tranh tăng lên từ đối thủ, cũng còn quá nhiều điều không chắc để kết luận theo hướng tiêu cực. Chẳng hạn, xuất khẩu của Việt Nam có cạnh tranh được hay không đôi khi còn phụ thuộc vào những yếu tố như tỷ giá (và, do đó, lãi suất) nên không chỉ nhìn về phía đối thủ rồi kết luận rằng Việt Nam sẽ bị thua thiệt.
Chuyện về các đối tác nâng cao tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường cũng vậy, bởi chuyện này đã đang và sẽ tiếp tục xảy ra như là “chuyện thường ngày”, không chỉ là hiện tượng riêng có cho năm 2019 nên cũng không thể dựa vào đây để kết luận rằng xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng từ năm nay.
Tuy nói như trên nhưng điều rút ra ở đây là không thể dự đoán một con số xuất khẩu và nhập khẩu cụ thể nào đó với mức độ tin cậy cao cho bất cứ thời gian nào được.
Trong khi đó phản ứng của Bộ Công Thương trước ý kiến của Thủ tướng cũng là một điều đáng nói. Câu trả lời của bộ rằng “kế hoạch đã đặt ra rồi nên bộ xin không sửa nữa nhưng mục tiêu của ngành vẫn luôn cố gắng vượt trên kế hoạch đã đặt ra” có nghĩa là bộ này cho rằng xuất siêu hay nhập siêu là vấn đề của bộ, và (nếu cố gắng) họ có thể đảo ngược tình hình.
Nói như vậy là không thỏa đáng. Bởi, như trên đã nói, một mình Bộ Công Thương không thể quyết định được chuyện Việt Nam sẽ xuất khẩu bao nhiêu, nhập khẩu bao nhiêu. Và cũng như đã đề cập qua, giá và lượng xuất khẩu, nhập khẩu còn tùy thuộc vào cả tỷ giá và lãi suất, là những thứ thuộc phạm vi kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước.
Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có hướng nới lỏng thì xuất khẩu của Việt Nam sẽ được kích thích và nhập khẩu sẽ bị hạn chế. Ngoài ra, các bộ như Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc các bộ chuyên ngành khác nếu làm tốt vai trò của mình thì sẽ giúp củng cố chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của các nước đối tác nhập khẩu.
Tóm lại, nếu có sự phối hợp nhịp nhàng và tích cực của tất cả các cơ quan hữu trách thì chuyện nhập siêu về nguyên tắc sẽ khó mà xảy ra. Do đó, thay vì đưa ra một dự báo dễ gây ra phản ứng trái chiều như vừa qua, Bộ Công Thương cần cam kết sẽ nỗ lực phối hợp với các bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp để đảm bảo duy trì một cán cân thương mại lành mạnh cho Việt Nam trong năm nay và các năm tới, đúng với vai trò và trách nhiệm của mình.

Wednesday 30 January 2019

Cần công bố kết quả xếp hạng ngân hàng (Bài đăng trên CafeF, 30/1/2019)

http://cafef.vn/chuyen-gia-can-cong-bo-ket-qua-xep-hang-ngan-hang-20190130150902343.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Thông tư số 52/2018/TT-NHNN quy định xếp hạng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi tắt là TCTD), bắt đầu áp dụng từ 1/4/2019. Thông tư này thay thế Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ban hành quy định xếp loại ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM). Căn cứ vào mức điểm xếp hạng đạt được, TCTD được xếp vào một trong các hạng sau: Tốt (A), Khá (B), Trung bình (C), Yếu (D) hoặc Yếu kém (E).
Điều đáng chú ý trong thông tư trên là kết quả xếp hạng sẽ chỉ được thông báo cho TCTD và NHNN chi nhánh tỉnh và thành phố mà không được công bố rộng rãi. Thậm chí, thông tư còn quy định việc thực hiện lưu trữ và sử dụng kết quả xếp hạng phải theo quy định pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước trong ngành ngân hàng. Đây là một thay đổi lớn của Thông tư 52 so với Quyết định 06, bởi theo Quyết định 06 thì kết quả xếp hạng này được công bố trên trang web của NHNN.
Về lý do không công bố kết quả này, khi dự thảo thông tư, NHNN có giải thích rằng, do mục đích khác nhau, nên ngân hàng trung ương, cơ quan giám sát tài chính tại nhiều nước trên thế giới đều không công bố rộng rãi kết quả xếp hạng các ngân hàng như các tổ chức xếp hạng tín nhiệm trong nước và quốc tế thực hiện định kỳ. Một lý do khác nữa là việc công bố này "có tính nhạy cảm cao".
Trên thực tế, việc đánh giá, phân loại và công bố thông tin về tình hình hoạt động và sức khỏe của TCTD không phải là hiếm trên thế giới. Điển hình nhất là việc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) phối hợp với các cơ quan giám sát của các quốc gia thành viên định kỳ và bất thường tiến hành đánh giá sức khỏe của các ngân hàng các nước thành viên mà ECB trực tiếp giám sát. Kết quả đánh giá sức khỏe được công bố rộng rãi, tuy chứa đựng những thông tin rất "nhạy cảm", có thể ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả kinh doanh của một NHTM nào đó (và cả hệ thống) nếu NHTM này bị đánh giá không tốt. Với ECB, sự công bố kết quả này là cần thiết bởi một trong những mục đích của việc đánh giá và công bố này là để tăng cường chất lượng thông tin hiện có về tình hình của NHTM.
Như vậy, việc đánh giá và xếp hạng TCTD về bản chất chính là, cần phải là nhằm đáp ứng yêu cầu xác đáng của tất cả các bên có liên quan, từ dân chúng đến Chính phủ và nhà đầu tư trong, ngoài nước về thông tin minh bạch liên quan đến tình hình của TCTD mà chỉ có thể có được một cách chất lượng và khách quan từ NHNN. Việc không công bố kết quả xếp hạng TCTD có nghĩa là sự minh bạch về chất lượng hoạt động của TCTD sẽ không được đảm bảo, và công luận không được biết đầy đủ những tồn tại và yếu kém của TCTD để gây áp lực đòi hỏi không chỉ TCTD liên quan mà cả NHNN phải có những biện pháp cải thiện ngay chất lượng hoạt động.
Hơn nữa, việc không công bố kết quả xếp hạng còn gây ra tình trạng bất đối xứng thông tin và ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của các bên có liên quan. Cụ thể hơn, do NHNN chỉ gửi kết quả đánh giá và xếp hạng đến TCTD nên sẽ chỉ có một số người, nhờ cách nào đó, mới biết được các thông tin này. Tình trạng thông tin bất đối xứng sẽ làm lợi cho những người biết thông tin trong khi làm hại toàn bộ những người có liên quan khác. Chẳng hạn, một nhà đầu tư nào đó nhờ biết được thông tin ngân hàng X bị NHNN xếp loại yếu nên âm thầm bán ra cổ phiếu ngân hàng này, trong khi những nhà đầu tư khác vẫn cứ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng X vì tin tưởng nó đang hoạt động lành mạnh, bình thường, một phần do không thấy có thông tin liên đới được NHNN công bố.
Quan trọng hơn, nếu sau khi đánh giá và xếp hạng xong mà NHNN không công bố kết quả thì công luận sẽ đặt câu hỏi là việc xếp hạng TCTD của NHNN là để nhằm mục đích gì, và phục vụ ai?
Trong văn bản thuyết minh cho dự thảo thông tư này của NHNN cũng như trong Thông tư 52, đã không có bất cứ thông tin nào về mục đích của Thông tư 52, ngoài việc NHNN trích dẫn Luật các TCTD về nhiệm vụ của NHNN hàng năm phải thực hiện xếp hạng các TCTD để phục vụ công tác thanh tra, giám sát các TCTD. Nhưng cho dù mục đích của việc xếp hạng là để phục vụ công tác thanh tra, giám sát TCTD của NHNN thì đây là một điều khó hiểu. Bởi việc thanh tra, giám sát cần phải được tiến hành trước rồi sau đó mới có thể xếp hạng TCTD, nếu muốn. Nói cách khác, có thanh tra, giám sát thì mới ra được bảng xếp hạng TCTD.
Nếu cho rằng việc xếp hạng TCTD là nhằm mục đích để cho từng TCTD biết được thứ hạng của mình để từ đó có giải pháp tương ứng nhằm cải thiện hoạt động thì điều này là không cần thiết vì từng TCTD phải biết là họ đang trong tình trạng như thế nào, căn cứ vào các tiêu chuẩn hoạt động mà NHNN ban hành. Ngoài ra, trong quá trình thanh tra, giám sát TCTD của NHNN, các vấn đề tồn tại và yếu kém sẽ (cần) được NHNN chỉ ra cho TCTD liên đới nên chắc chắn họ biết sẽ phải làm gì mà không cần phải đợi đến khi có kết quả xếp hạng cho mình thì mới thực hiện các giải pháp cải thiện chất lượng hoạt động.
Tóm lại, điểm đáng lưu tâm của Thông tư 52 là đã không nêu rõ mục đích và tính cần thiết của việc xếp hạng TCTD và việc không công bố kết quả xếp hạng. Do đó, cần có những điều khoản sửa đổi, bổ sung phù hợp về việc xếp hạng TCTD và công bố kết quả.

Tuesday 29 January 2019

Nên kết thúc thí điểm xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 (Bài đăng trên TBKTSG, 30/1/2019, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/td/284571/nen-ket-thuc-thi-diem-xu-ly-no-xau-theo-nghi-quyet-42-.html


Từ tuần qua nhiều ngân hàng đã và đang tiếp tục cập nhật kết quả kinh doanh của mình trong năm 2018 với điểm nổi bật là lợi nhuận trước thuế đã tăng mạnh so với năm trước đến nhiều chục phần trăm. Điểm đáng lưu ý là bối cảnh của sự tăng trưởng lợi nhuận này là tăng trưởng tín dụng cả năm nhìn chung đã bị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khống chế chặt chẽ so với năm trước để đảm bảo mục tiêu ổn định vĩ mô. Bởi vậy, yếu tố góp phần vào sự cải thiện lợi nhuận này không thể không kể đến tăng trưởng doanh thu ngoài lãi (thu từ dịch vụ) và đặc biệt là từ giảm thiểu, xử lý và thu hồi nợ xấu.

Cụ thể hơn, Agribank, một ngân hàng theo báo cáo đã “bất ngờ” báo lãi 7.500 tỷ đồng, vượt xa kế hoạch là 5.700 tỷ đồng (không rõ vượt bao nhiêu % so với năm 2017) đã thu hồi được 12 nghìn tỷ đồng nợ xấu, đẩy tỷ lệ nợ xấu xuống còn 1,51%. BIDV, một ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước khác, thì công bố con số lợi nhuận 9.625 tỷ đồng bên cạnh “thành công vượt bậc trong xử lý nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết 42 của Quốc hội”. Vietcombank tuy dường như không báo cáo về việc thu hồi và xử lý nợ xấu nhưng cũng công bố mức nợ xấu thấp là 0,97% trong khi dư quỹ dự phòng rủi ro đạt gần 10.500 tỷ đồng và tỷ lệ bao phủ nợ xấu nội bảng là 170%.

Với một số ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân đã cập nhật kết quả kinh doanh năm 2018 như SHB, Techcombank, MB, Kienlongbank, và VIB thì tăng trưởng lợi nhuận ấn tượng năm 2018 cũng có sự góp mặt rõ ràng của việc khống chế, xử lý nợ xấu. SHB đã chủ động mua lại trước hạn khoảng 1.300 tỷ đồng nợ xấu đã bán cho VAMC trong năm 2018 và đã trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu hơn 5.000 tỷ đồng. Các ngân hàng khác thì nhìn chung đều báo cáo tỷ lệ nợ xấu thấp, quanh quẩn 1% và/hoặc đang có kế hoạch mua lại nợ xấu.

Công của Nghị quyết 42?

Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) có hiệu lực từ tháng 8/2017. Nghị quyết này có mục tiêu pháp điển hoá những quy định cụ thể về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng, nâng cao vai trò, năng lực của VAMC. Bên cạnh đó, Nghị quyết hướng tới xử lý các vướng mắc, khó khăn liên quan đến hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tạo cơ chế đồng bộ, khả thi, tăng cường kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm các khoản nợ xấu của TCTD...

Thực tế cho thấy một số trong những mục tiêu trên vẫn chưa đạt được. Trong lần cập nhật tình hình triển khai Nghị quyết 42 gân đây nhất là vào tháng 8/2018, tức một năm sau ngày nó có hiệu lực, Nghị quyết được cho là đã là phát đi thông điệp bảo vệ đến cùng quan hệ có vay, có trả, tạo tiền đề cho VAMC và TCTD thu hồi nợ. Thông qua việc thu giữ, phát mại tài sản bảo đảm cũng như thái độ hợp tác của khách vay, đã khẳng định được quyền của chủ nợ - điều mà các tổ chức tín dụng mong mỏi đã lâu. Đồng thời,  Nghị quyết tái lập quyền bình đẳng về dân sự là quyền thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm của các TCTD khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ, qua đó tác động tới thái độ khách hàng trong xử lý nợ xấu (1).

Trong khi đó, việc triển khai Nghị quyết vẫn còn nhiều vướng mắc như đã được chỉ ra vào dịp trên, và không rõ là đã được giải quyết ra sao vào thời điểm hiện tại. Một trong những vướng mắc điển hình là tuy Nghị quyết 42 cũng có nội dung rút gọn quá trình tố tụng và xử lý tranh chấp tài sản đảm bảo, nhưng trên thực tế hơn 2.000 vụ việc liên quan đến việc đòi nợ của VAMC chưa có vụ nào được xử lý theo hình thức rút gọn này. Ngoài ra, còn có những vướng mắc như sự phối hợp chưa tốt giữa các cơ quan hữu quan...

Như vậy, có thể thấy những cái “được” của Nghị quyết 42 khá là chung chung, mang tính danh nghĩa, trong khi những “điểm nghẽn” quan trọng thì vẫn chưa được giải quyết, ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại là thời điểm chưa thấy có thêm báo cáo cập nhật về “công trạng” gì khác của Nghị quyết 42. Nói cách khác, việc xử lý nợ xấu cho đến nay, kể cả sau khi Nghị quyết 42 được triển khai, vẫn chủ yếu là do nỗ lực của bản thân các ngân hàng có nợ xấu.

Cũng cần nói thêm là tuy VAMC cũng tự mình xử lý được một phần nợ xấu nhưng có một điều không thể phủ nhận là kết quả này là do nợ xấu mà VAMC mua từ các TCTD phần nhiều là nợ “tuyển”, nợ “đẹp”. Nếu để TCTD xử lý thì sớm muộn họ cũng tự xử lý được bởi cơ chế xử lý của VAMC hầu như cũng không có gì ưu việt, hiệu quả hơn so với các TCTD. Và thực tế cho thấy nhiều TCTC, như Vietcombank, Agribank, SHB, Techcombank, MB, VIB, và ACB..., đã chủ động và tích cực mua lại (hết) nợ xấu từ VAMC, đồng thời trích lập dự phòng (cách xử lý nợ xấu chủ yếu tại các TCTD).

Xử lý... Nghị quyết 42

Từ phân tích trên, điều có thể rút ra là cần nhanh chóng tổng kết và kết thúc thí điểm việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 mà không đợi đến thời điểm Nghị quyết này hết hiệu lực vào tháng 8/2022. Nhìn chung, 5 năm là một thời gian quá dài cho một thí điểm nào đó tương tự. Những cái “được” trên danh nghĩa của Nghị quyết 42 nếu đã phát huy tác dụng thì cũng đã phát huy rồi. Còn những “điểm nghẽn” của Nghị quyết này nếu đã có thể giải quyết, khắc phục được thì cũng không cần phải chờ đến hơn 3 năm nữa mới lộ diện, mới xử lý được, xử lý xong. Những “điểm nghẽn” còn lại như chuyện không phối hợp tốt giữa các cơ quan hữu trách thì rõ ràng là có hay không Nghị quyết 42 cũng không tạo ra khác biệt, mà đây là căn bệnh chung, nan y trong cả nền kinh tế dù có đầy rẫy những quy định pháp luật có liên quan.

Ngược lại, nếu cứ “treo” Nghị quyết 42 cho đến khi hết hiệu lực trong khi những bất cập của nó tiếp tục không được xử lý sớm và hữu hiệu thì các nguồn lực liên quan tiếp tục bị phân tán, lãng phí bởi cơ chế xử lý nợ xấu vẫn... xấu, vẫn bất cập, không góp phần thúc đẩy tốc độ xử lý và kiềm chế nợ xấu.

(1) https://baomoi.com/xu-ly-no-xau-theo-nghi-quyet-42-chi-co-vai-vu-tranh-chap-duoc-xu-ly-theo-thu-tuc-rut-gon-tai-toa/c/27550212.epi

Friday 18 January 2019

Nguy cơ thu ngân sách lệ thuộc vào đất (Bài đăng trên TBKTSG, 19/1/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/284266/nguy-co-thu-ngan-sach-le-thuoc-vao-dat.html

LTS: Đất đai là nguồn lực quý hiếm của nước ta. Nguồn lực này đã giúp kinh tế Việt Nam phát triển trong nhiều năm qua, nhưng việc sử dụng nguồn lực này cũng để lại không ít hệ lụy. Đất nước đã đi lên từ đất, nhưng liệu người dân có giàu lên từ đất chưa?

Thu ngân sách nhà nước (NSNN) kể từ năm 2010- 2017 đã tăng với mức trung bình gộp là gần 12%/năm (xem bảng 1). Mức này khó có thể gọi là cao nếu so sánh với tốc độ tăng trung bình của GDP danh nghĩa (tăng trưởng GDP theo giá hiện hành) của Việt Nam cũng khoảng hai chữ số hàng năm trong thời gian này.
Đáng nói là trong mấy năm gần đây, tỷ lệ thu từ dầu thô và xuất nhập khẩu trong tổng thu NSNN có xu hướng sụt giảm mạnh. Bù một phần vào sự thiếu hụt này là sự cải thiện mạnh của nguồn thu về nhà, đất, chiếm 11-12% trong tổng thu NSNN kể từ năm 2016 so với mức dưới một chữ số các năm trước đó (có lúc chỉ chiếm 6% như trong năm 2014).
Trong hạng mục thu về nhà đất, khoản đáng kể và tăng nhanh nhất chính là thu tiền sử dụng đất. Theo quy định của Luật NSNN, khoản thu tiền sử dụng đất (trừ thu tiền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý) là khoản thu thuộc ngân sách địa phương. Đây là khoản tiền mà người sử dụng đất/nhà phải nộp để có quyền sử dụng đất/sở hữu nhà. Như vậy, có thể hiểu khoản thu về nhà, đất càng tăng lên thì tài sản đất đai, nhà cửa thuộc sở hữu nhà nước có xu hướng bị chuyển giao càng nhiều cho cá nhân, hộ gia đình và tổ chức kinh tế (bên cạnh những lý do như giá đất tăng, tăng thu hồi tiền nợ đọng từ các dự án bất động sản...).
Khoản thu về nhà, đất đương nhiên là rất có ý nghĩa ở khía cạnh là giảm thâm hụt ngân sách, đặc biệt trong bối cảnh các khoản thu nội địa, thu từ dầu thô và thu từ xuất nhập khẩu hoặc là tăng chậm, hoặc là sụt giảm do nhiều lý do (dư địa tăng thu thuế không còn nhiều, giá dầu thô giảm, cắt giảm thuế quan trong các hiệp định thương mại tự do...). Tuy nhiên, cũng giống như việc cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước, nhà và đất đai sở hữu nhà nước cũng chỉ có hạn, không thể cứ bán và bán mãi được.
Sự lệ thuộc lớn của NSNN vào nguồn thu từ nhà đất sẽ đem đến một rủi ro lớn là khi nguồn nhà đất, công sản cạn kiệt hoặc thị trường bất động sản trầm lắng kéo theo giá bất động sản và nhu cầu sụt giảm, thu NSNN sẽ không kịp được bù đắp bởi những nguồn khác có tính chất thường xuyên, dẫn đến gia tăng thâm hụt NSNN, buộc phải dựa nhiều hơn vào vay nợ trong và ngoài nước. Tình hình này cũng tương tự như việc một quốc gia xuất khẩu dầu lửa có nền kinh tế què quặt, dựa hoàn toàn vào xuất khẩu dầu lửa để trang trải mọi thứ nên nền kinh tế sẽ nhiều lúc thăng trầm, khủng hoảng.
Và cũng như là một minh họa cho việc phải dựa vào bán nhà, đất công, chắc hẳn không ít người trong chúng ta đã từng cảm thấy ái ngại cho Hy Lạp khi họ phải bán cả những tài sản nhà nước như sân bay, cảng biển, đường sắt và cả các hòn đảo du lịch trong cơn tuyệt vọng kiếm tiền để trả nợ nước ngoài. Hậu quả của những chuyện tương tự không chỉ ở hình ảnh quốc gia bị đánh giá xấu đi trong con mắt quốc tế mà còn ở khía cạnh an ninh, chủ quyền quốc gia khi nhiều “tấc đất” rơi vào tay người nước ngoài, không ít trong số đó biến thành lãnh thổ riêng của họ.
Do vậy, việc bán nhà đất, công sản cần luôn được coi chỉ là một giải pháp tạm thời, đặng chẳng đừng khi không còn (nhiều) giải pháp và công cụ khác (và dư địa tăng thu).
Tuy nhiên, điều nghịch lý là dường như ở Việt Nam chuyện tăng thu ngân sách nhờ đất đai lại được coi như là một thành công vì đã “đóng góp lớn cho ngân sách địa phương”! Thậm chí tại những thành phố lớn và là đầu tàu kinh tế cả nước như Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM thì tỷ lệ thu từ nhà đất trên tổng thu NSNN còn lớn hơn cả mức trung bình cả nước.
Bảng 2 tập hợp số liệu quyết toán được Quốc hội thông qua có trên trang web của Bộ Tài chính về các khoản thu về nhà, đất tại Hà Nội và Đà Nẵng (số liệu tương ứng của TPHCM vì một lý do nào đó không có trên trang web này). Theo đó, nhìn chung tỷ lệ các khoản thu về nhà, đất của hai thành phố này, nhất là Đà Nẵng, trên tổng thu NSNN cao hơn nhiều so với mức chung của cả nước.
Gần đây có một số cảnh báo rằng nguồn thu từ nhà đất tại TPHCM đã sụt giảm mạnh trong năm 2018, theo đó năm 2018, ước thu ngân sách từ đất tại TPHCM đạt khoảng 22.600 tỉ đồng, giảm khoảng 5.139 tỉ so với 2017(1).
Dù đây mới chỉ là những con số thống kê sơ bộ (thường biến động rất lớn so với con số thực tế, quyết toán) nhưng đây chắc chắn sẽ là hiện tượng không thể tránh khỏi, không thể đảo ngược khi mà quỹ nhà đất, công sản của các địa phương trên cả nước dần cạn kiệt và càng cạn kiệt nhanh chóng tỷ lệ thuận với tốc độ khai thác được đẩy mạnh qua những “sáng kiến” như đổi đất lấy hạ tầng. Tuy việc đổi này cũng quy ra tiền nhưng chính quyền các cấp lại thanh toán cho nhà đầu tư các dự án đối tác công- tư (PPP) bằng đất đai, công sản với giá rẻ mạt.
Sự “đổi chác” trên không hiếm khi diễn ra với lý do rất chính đáng là đáp ứng nhu cầu cấp thiết của địa phương trong khi nguồn vốn đầu tư công không thể đáp ứng được. Vì là cấp thiết nên chính quyền thường, trong kịch bản “trong sạch” nhất, tiến hành các thủ tục trái quy định, quy trình với các nhượng bộ lớn cho nhà đầu tư để mau chóng đổi lấy dự án cho địa phương.
Trong kịch bản tệ hơn (và phổ biến hơn), đã và sẽ có những “cái bắt tay” của các nhóm lợi ích, lợi dụng chủ trương đổi đất lấy hạ tầng này để trục lợi. Ví dụ, hàng chục, hàng trăm héc ta đất mới đổi lấy được một ki lô mét đường của dự án. Chính những việc làm sai trái và trục lợi này càng làm quỹ nhà đất, công sản cạn kiệt nhanh chóng.
Bài học rút ra, tuy khá muộn, là cần giảm ngay tỷ lệ và mức độ bán nhà đất, công sản. Muốn thực hiện được điều này thì chỉ còn một cách là phải cắt giảm ngay chi NSNN để giảm áp lực lên tăng thu, tận thu, bán gấp và bán hết. Đồng thời, muốn dùng đất để phát triển cơ sở hạ tầng thì phải thực hiện thông qua đấu giá, đấu thầu công khai cả đất đai lẫn dự án phát triển cơ sở hạ tầng để chi phí phát triển dự án và giá bán đất đai là chi phí và giá bán cạnh tranh trên thị trường. 

(1) https://vnexpress.net/kinh-doanh/nguon-thu-ngan-sach-tu-dat-cua-tp-hcm-giam-hon-5-000-ty-dong-3862462.html

PVN, Bộ Công Thương và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Bài đăng trên TBKTSG, 18/1/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/284272/pvn-bo-cong-thuong-va-uy-ban-quan-ly-von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep-.html

Bộ Công Thương vừa có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ liên quan đến các kiến nghị của tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đối với dự án nhiệt điện Thái Bình 2 do PVN làm chủ đầu tư được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7-2010.

Theo thông tin báo chí, dự án này đã chậm tiến độ 55-57 tháng, đến giữa tháng 10-2018 tiến độ tổng thể của dự án mới đạt 82,78%. Vấn đề là PVN báo cáo rằng dự kiến đến khi hoàn thành dự án, tổng thầu là Tổng công ty Xây lắp dầu khí (PVC) sẽ bị thiếu hụt một số khoản tiền so với giá trị hợp đồng EPC được ký điều chỉnh sau khi mức đầu tư điều chỉnh lần hai được duyệt. Thêm nữa, PVN còn khó khăn trong thu xếp vốn còn thiếu, nhiều thiết bị chưa đưa vào sử dụng nhưng đã bị quá thời hạn bảo hành nên dự án tiếp tục chậm tiến độ sẽ tăng rủi ro liên quan đến chất lượng thiết bị đã quá thời hạn bảo hành. Vì vậy, để “giải cứu” dự án này, PVN kiến nghị Bộ Công Thương cho phép sử dụng khoảng 2.500 tỉ đồng từ nguồn dự phòng trong tổng mức đầu tư được điều chỉnh lần hai và lợi nhuận từ nguồn sản xuất kinh doanh của tập đoàn để tập trung nguồn lực hoàn thành dự án.
Tuy vậy, điều lạ lùng là tuy PVN chắc chắn đã biết rõ sự chuyển giao quyền quản lý này nhưng họ vẫn kiến nghị và “xin xỏ” với Bộ Công Thương để bộ này báo cáo với Thủ tướng mà không trực tiếp làm điều này với UBQL. Phải chăng PVN muốn “mượn tay” Bộ Công Thương can thiệp với UBQL và/hoặc với Thủ tướng để dễ bề xin xỏ hơn?Đáng lưu ý là, cũng theo báo chí, trong phản hồi của Bộ Công Thương với báo cáo của PVN, bộ này đã yêu cầu PVN báo cáo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (UBQL). Phải nói luôn phản hồi này là hợp lý vì UBQL hiện đã là đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nên mọi quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chịu sự quản lý, phê duyệt của cơ quan này (tất nhiên là có sự tham vấn của Bộ Công Thương và các bộ có liên quan về những vấn đề trong hoạt động của ngành áp dụng cho mọi doanh nghiệp trong ngành).
Điều lạ thứ hai nữa là tại sao khi nhận được báo cáo của PVN, Bộ Công Thương lại không trả lời thẳng với PVN rằng bộ này không còn trách nhiệm quản lý nữa, và PVN phải hỏi UBQL mới “đúng người đúng việc”. Thay vào đó, Bộ Công Thương lại gửi văn bản lên Thủ tướng với mục đích không được tuyên bố rõ.
Thêm một chi tiết đáng chú ý nữa là đáp lại kiến nghị của PVN xin điều chỉnh tiến độ dự án, “đoàn công tác liên ngành” đã cho ý kiến. Sự xuất hiện đột ngột của đoàn công tác liên ngành này thay cho Bộ Công Thương làm dấy lên một loạt câu hỏi như đoàn này gồm những thành phần nào, có sự tham gia của UBQL không, và, thêm một lần nữa, tại sao lại là đoàn công tác liên ngành mà không phải là duy nhất UBQL đứng ra trả lời và quyết định đúng như chức năng của nó được pháp luật quy định?
Ngoài ra, cũng cần chú ý đến lời phát biểu của ông Nguyễn Hoàng Anh, Chủ tịch UBQL tại lễ bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp từ Bộ Công Thương sang UBQL ngày 10-11-2018. Theo đó, ông Anh nhấn mạnh mặc dù các doanh nghiệp được chuyển giao về UBQL nhưng vẫn tiếp tục chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Công Thương, và đề nghị hai đơn vị tăng cường hơn nữa công tác phối hợp để hoạt động kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty đạt kết quả cao nhất.
Xâu chuỗi lại những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy quan hệ giữa Bộ Công Thương với PVN thực chất vẫn chưa thay đổi và vai trò của UBQLvới PVN trong trường hợp này mang tính danh nghĩa. Hơn nữa, dù đã được thành lập và đi vào hoạt động nhưng sự phân định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm giữa Bộ Công Thương và UBQL dường như vẫn chưa “thông”. Việc nhấn mạnh đến sự phối hợp giữa UBQL với các bộ chuyên trách như Bộ Công Thương thậm chí còn có thể làm cho người ta hiểu rằng rốt cuộc thì UBQL cũng chỉ có vai trò như một bộ chuyên trách giống các bộ khác. Theo đó, họ sẽ không tự chủ, tự quyết được những nội dung công việc liên quan đến vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi được pháp luật cho phép, trái với sứ mệnh và kỳ vọng đặt ra cho họ trước khi cơ quan này được thành lập.

Thursday 10 January 2019

Cần môi trường công bằng cho cả đôi bên (Bài đăng trên TBKTSG, 10/1/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/283967/can-moi-truong-cong-bang-cho-ca-doi-ben-.html

Quyết định 24 của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) về thí điểm quản lý taxi công nghệ đã hết hiệu lực vừa tròn một năm (từ tháng 1-2018). Đến nay, việc quản lý mô hình kinh doanh này ra sao vẫn còn chờ Chính phủ. Rõ ràng, luật pháp đã đi sau thực tiễn quá xa.

Ngày 28-12, Tòa án Nhân dân TPHCM đã ra phán quyết buộc Grab phải bồi thường cho Vinasun 4,8 tỉ đồng kèm các loại án phí. Phán quyết này không nhận được sự đồng tình của Grab và không ít người sử dụng dịch vụ gọi xe Grab.
Là một người rất ít dùng dịch vụ Grab ở Việt Nam nhưng đương nhiên người viết cũng ủng hộ sự ra đời của dịch vụ gọi xe Grab vì nó đã mang đến cho người dân một lựa chọn nữa mà nhìn chung là rẻ hơn dịch vụ taxi thông thường. Tuy nhiên, với tư cách là một người quan sát độc lập, người viết thấy vụ kiện của Vinasun không phải không có lý và, do đó, Grab không phải là hoàn toàn là “vô tội” hoặc là “nạn nhân” oan ức.
Grab thường có giá rẻ hơn taxi thông thường bởi Grab là một dạng kinh tế chia sẻ ứng dụng công nghệ để nối kết người bán và người mua theo phương thức P2P (ngang hàng) thông qua các platform (nền tảng giao dịch) với chi phí hoạt động thấp hơn. Tuy nhiên, Grab và đối tác tham gia - người cung cấp dịch vụ vận tải - còn được hưởng lợi lớn nhờ thiếu vắng luật lệ tương ứng như với loại hình taxi thông thường. Hoặc nếu có thì mức độ yêu cầu pháp lý cũng thấp hơn nhiều, gồm những yêu cầu về thuế, lên cả Grab với tư cách là một doanh nghiệp và lên các lái xe Grab với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ. Lưu ý là chuyện này xảy ra không chỉ trong lĩnh vực vận tải mà còn ở nhiều lĩnh vực khác có sự xuất hiện của kinh tế chia sẻ, không chỉ xuất hiện ở Việt Nam mà là hiện tượng phổ biến trên thế giới đã tốn nhiều giấy mực của giới chuyên gia và các nhà làm chính sách nhằm tìm một giải pháp ổn thỏa để đối xử bình đẳng với “cái cũ” và “cái mới”.

Một số minh họa về sự chênh lệch về mức độ bị “quản” bởi pháp luật giữa các hãng taxi truyền thống như Vinasun và Grab đã được chỉ ra như Grab thoải mái đi lại ở những nơi cấm, hạn chế taxi; Grab được hưởng thuế suất 3% thuế giá trị gia tăng trên doanh thu được hưởng so với mức 10% thuế giá trị gia tăng và 20% thuế thu nhập doanh nghiệp áp lên doanh nghiệp taxi truyền thống; lái xe Grab không ít người là lái xe chuyên nghiệp (toàn thời gian) chứ không phải chỉ là “tranh thủ kiếm thêm trong thời gian rỗi” nên dù thu nhập cao mà chỉ bị chịu mức thuế khá thấp, cụ thể là thuế giá trị gia tăng 3% doanh thu chịu thuế, 1% khoản tiền thưởng khuyến khích, 10% trên số tiền thưởng thứ 2 triệu đồng trở lên đối với khoản tiền thưởng chất lượng phục vụ theo đánh giá cao. Để so sánh, nhuận bút viết bài của người viết thường bị khấu trừ ngay 10% từ nguồn, mặc dù người viết không phải là nhà báo chuyên nghiệp và cũng chẳng có thu nhập chịu thuế nào khác ở Việt Nam.
Với Grab (và Uber trước đây), mức thuế họ phải trả cũng là 3% thuế giá trị gia tăng trên doanh thu được hưởng, thấp hơn nhiều taxi truyền thống (10% thuế giá trị gia tăng, 20% thu nhập doanh nghiệp).
Với những ưu đãi và ưu thế nói trên thì không có gì ngạc nhiên là những mô hình kinh tế chia sẻ như Grab có được lợi thế lớn về chi phí nên đã và sẽ ngày càng lấn lướt, chiếm thị phần của taxi truyền thống. Nhưng đúng là sẽ khó cho Vinasun hay bất cứ một hãng nào khác chứng minh được rằng sự cạnh tranh lấn lướt (một cách vi phạm pháp luật) của Grab được giúp sức một phần bởi chính sách thuế và các chính sách khác có tính phân biệt đối xử của nhà nước đã gây tổn hại cụ thể cho họ như thế nào.
Tuy vậy, đã có những nghiên cứu trên thế giới chỉ ra được mức tổn hại từ một góc độ cụ thể, bằng một con số cụ thể nào đó, chẳng hạn như với trường hợp Uber khai trương dịch vụ ở San Francisco vào năm 2015 đã làm cho nhu cầu với taxi truyền thống giảm đi 65%(1). Nếu các hãng taxi ở Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng phương pháp nghiên cứu này thì họ có thể chứng minh được mức tổn hại mà Grab gây ra một cách thuyết phục hơn.
Tuy nhiên, điều mà các hãng taxi truyền thống cần làm là đấu tranh để được đối xử bình đẳng như với Grab, hoặc là bằng cách nâng những yêu cầu pháp lý áp dụng cho Grab lên ngang với mức áp dụng cho taxi truyền thống, hoặc là ngược lại. Làm được như vậy thì họ sẽ tránh được một nhiệm vụ gần như bất khả thi với khả năng của mình là chứng minh cho được Grab đã làm tổn hại bao nhiêu tiền cho các hãng này bằng những hành vi vi phạm pháp luật, nếu có, của Grab. Không chỉ có vậy, nếu chỉ dừng lại ở việc kiện đòi Grab bồi thường một số tiền nào đó thì những nguyên nhân gây ra tổn hại cho các hãng taxi truyền thống vẫn còn nguyên đó và họ sẽ tiếp tục bị cạnh tranh bất lợi nếu không phải là Grab thì sẽ bởi những cái tên mới khác có mô hình hoạt động tương tự như Grab sau này. Và dĩ nhiên là để không bị Grab hay những doanh nghiệp tương tự vượt mặt thì các hãng taxi truyền thống cũng không chỉ nên ngồi đó mà kêu ca. Họ cũng cần phải tự đổi mới, áp dụng công nghệ để duy trì sức cạnh tranh của mình.
Về phần Chính phủ, cũng cần có những thay đổi chính sách thích hợp để đảm bảo các doanh nghiệp kinh tế chia sẻ hoạt động trên cơ sở bình đẳng hơn với những doanh nghiệp truyền thống. Một ví dụ nhỏ về điều mà nhà làm chính sách có thể làm được ngay là đặt ra các giới hạn định lượng. Theo đó, lái xe Grab nếu vượt quá định lượng này thì cần được coi là lái xe chuyên nghiệp, thường xuyên và phải chịu chế tài bởi pháp luật hiện hành như đang được áp dụng với taxi truyền thống, gồm cả việc nộp thuế. Những lái xe bán thời gian, tranh thủ làm thêm khác không vượt định lượng này thì sẽ được áp dụng những quy định nới lỏng hơn. Những thay đổi này sẽ củng cố chính sách khuyến khích đổi mới áp dụng công nghệ trong thời đại công nghệ 4.0 mà Chính phủ đang hết sức cổ xúy.
(1) https://www.business.unsw.edu.au/About-Site/Schools-Site/Taxation-Business-Law-Site/Documents/The-sharing-economy-turning-challenges-into-compliance-CM-JdJ-JO.pdf

Wednesday 2 January 2019

Để các mô hình mới thành công (Bài đăng trên TBKTSG, 2/1/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/283405/de-cac-mo-hinh-moi-thanh-cong-.html


Tiến bộ ông nghệ đã làm nảy sinh nhiều mô hình kinh doanh mới dựa trên các nền tảng chia sẻ như gọi xe công nghệ, Airbnb, cho vay ngang hàng, chia sẻ nhân lực, chia sẻ nơi tập gym… Tuy nhiên, không phải mô hình kinh doanh chia sẻ nào cũng gọi vốn thành công, tăng trưởng nhanh và bền vững. Nên câu hỏi đặt ra là để các mô hình kinh doanh này thành công thì cần những yếu tố nào?

Luật lệ

Một trong những thách thức lớn nhất với kinh tế chia sẻ ở các nước trên thế giới chính là các luật lệ và quy chế của Chính phủ, hoặc sẽ cản trở hoặc sẽ cấm cửa các mô hình kinh doanh mới dựa trên kinh tế chia sẻ này. Tất cả các quy chế và luật lệ hiện hành được thiết kế để nhắm đến các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ chuyên nghiệp. Chúng không được thiết kế để đón đầu xu hướng mà theo đó vào một ngày nào đó người tiêu dùng lại trở thành nhà cung cấp trong thời gian rỗi của họ. Đáng nói hơn, luật lệ và quy chế đối với các mô hình kinh tế mới này, nếu có, hiếm khi ở cấp độ quốc gia mà thường chỉ ở cấp độ tỉnh, thành phố, và bang nên có thể sẽ gây tốn kém về chi phí và thời gian cho các starup nếu muốn thành công và lớn mạnh đạt đến quy mô lớn.

Các startup cũng hiếm khi phớt lờ được yếu tố luật lệ và quy chế của Chính phủ mà thường phải phối hợp chặt chẽ với Chính phủ để đạt được cái đích mà các bên – người tiêu dùng, nhà cung cấp và cơ quan quản lý – đều là người thắng cuộc.

Luật cần được thay đổi để theo kịp với đà tiến của công nghệ mới, như đã được chính quyền bang California thực hiện với các startup gọi xe công nghệ. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng đã phải chủ động tích cực tiếp cận các cơ quan chức năng để giảm thiểu số vụ phải đóng cửa và đình chỉ hoạt động xảy ra với ngành này ở khắp nước Mỹ và lan ra các ngành khác như ví dụ của cuộc chiến giữa Airbnb với chính quyền thành phố New York trước đây.

Gọi vốn

Một trong những nhầm lẫn phổ biến là kinh tế chia sẻ đòi hỏi rất ít vốn mà chỉ cần công nghệ viết code và thiết kế nền tảng giao dịch tốt. Thực tế, Airbnb, Lyft và Uber đã phải huy động hàng trăm triệu đô la tiền vốn cổ đông và nợ. Tại sao vậy?

Các mô hình kinh doanh mới cần nhiều vốn bởi, thứ nhất, giai đoạn đầu mới thành lập chúng cần phải có “nguồn cung” dồi dào. Rất thường xuyên xảy ra là các nền tảng giao dịch phải trợ giá cho những nhà cung cấp dịch vụ tốt nhất để giúp họ bỏ qua không nuối tiếc những cơ hội kinh doanh hiện thời (khi không tham gia vào kinh tế chia sẻ) và giải quyết được vấn đề “con gà hay quả trứng”. Ban đầu, Lyft hay Uber đã phải trả cho nhà cung cấp một mức “giá sàn” đủ hấp dẫn để giữ chân họ những khi nhu cầu khách hàng không thể dự đoán được.

Thứ hai, có những lĩnh vực kinh doanh chỉ giới hạn trong một phạm vi địa lý nhất định nên dù việc kinh doanh đã phát triển tốt ở khu vực, thành phố hiện tại nhưng khi doanh nghiệp muốn mở rộng việc kinh doanh sang một thành phố khác thì họ gần như phải xây dựng mọi thứ từ đầu, và tất nhiên là cần một lượng vốn lớn để triển khai công việc như đã xảy ra ở thành phố hiện tại.

Thứ ba, hầu như với mọi startup luôn có một cuộc chiến tranh giành những nhân sự giỏi nhất không chỉ trong lĩnh vực công nghệ mà còn ở các lĩnh vực marketing, logistics, chuyên gia thị trường và pháp lý… Xây dựng một ứng dụng có thể rẻ nhưng tuyển dụng nhân sự giỏi để đảm bảo chất lượng dịch vụ hàng đầu luôn được duy trì tại mọi nơi mà starup có hoạt động lại là câu chuyện hoàn toàn khác.

Tuyển chọn

Sẽ là rất tốt nếu startup trong lĩnh vực kinh tế chia sẻ có được ứng dụng được thiết kế đẹp để sử dụng cho nền tảng kinh tế chia sẻ. Nhưng điều này không đảm bảo được sự thành công của startup này. Điều quan trọng là các kết nối của con người và cộng đồng. Công nghệ chỉ giúp cho người mua và người bán dịch vụ gặp được nhau chứ không quyết định được việc người mua có quay lại  tiếp tục mua dịch vụ chia sẻ nữa hay không. Người mua dịch vụ sẽ nhớ về trải nghiệm offline của mình với dịch vụ được cung cấp nhiều hơn rất nhiều so với việc họ nhớ về các nút bấm trên điện thoại hay máy tính để mua dịch vụ chia sẻ.

Mức độ rủi ro về chất lượng và an toàn trong kinh tế chia sẻ thường là cao bởi nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ trong kinh tế chia sẻ không phải là nhà cung cấp chuyên nghiệp và dài hạn. Điều này đòi hỏi trải nghiệm offline của người mua phải được lựa chọn và biên tập kỹ càng để làm hài lòng khách hàng, tạo cảm giác an toàn và nhất quán, đặc biệt trong giai đoạn ban đầu khi phương thức truyền miệng đóng vai trò quan trọng.

Trước khi đến thời điểm mà văn hóa và thương hiệu của dịch vụ đã được khẳng định và nhận được nhiều đánh giá tốt thì cần phải tuyển chọn và theo dõi kỹ từng nhà cung cấp. Thường thì các nền tảng kinh tế chia sẻ có xu hướng mở rộng cửa đón nhận và cho phép mọi nhà cung cấp được cung cấp dịch vụ của mình đến người tiêu dùng. Nhưng cách làm thiếu thận trọng này sẽ gây ra sự không đồng nhất về trải nghiệm khách hàng, có khả năng tạo ra các cuộc khủng hoảng cho doanh nghiệp khi những trải nghiệm xấu lan rộng chóng mặt trên mạng qua phương thức truyền miệng.
Lyft đã tập trung nguyên tắc tuyển chọn trên vào chất lượng trải nghiệm khách hàng. Khi Lyft đánh giá một lái xe tiềm năng, họ tự hỏi mình – liệu mình có thuê người này đứng ở quầy lễ tân trong một khách sạn sang trọng không?

Cơ chế tự chủ sắp có thay đổi (Bài đăng trên TBKTSG, 31/12/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/283398/co-che-tu-chu-sap-co-thay-doi-.html


Một số thay đổi đáng chú ý theo dự thảo Nghị định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập

Bộ Tài chính đang đưa ra lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2015/NĐ-Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Dự thảo này có một số thay đổi quan trọng so với Nghị định 16.

Thay đổi quan trọng đầu tiên là báo chí đã không còn được coi là một trong những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo. Tương ứng với điều này, trong phần giải thích về “dịch vụ sự nghiệp công”, dự thảo cũng đã cắt bỏ lĩnh vực báo chí.

Như vậy, có thể diễn giải từ dự thảo là các cơ quan báo chí với tư cách là các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ không còn được, không có cơ chế tự chủ như hiện nay nữa (trong Nghị định 16). Không rõ nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi này trong dự thảo nên có lẽ Bộ Tài chính cần có văn bản giải thích chi tiết những thay đổi này để dư luận hiểu rõ, tránh những đồn đoán bất lợi, không cần thiết.

Tiếp theo, khoản 2 điều 2 được sửa đổi từ “Đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội áp dụng các quy định tại Nghị định này…” thành “Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được áp dụng các quy định tại Nghị định này…”. Có thể hiểu sửa đổi này trong dự thảo có hướng mở hơn so với Nghị định 16, theo đó các cơ quan nói trên có quyền lựa chọn áp dụng, hoặc không áp dụng, các quy định của dự thảo, trong khi theo Nghị định 16 thì họ chỉ có một lựa chọn là phải áp dụng.

Khoản 1 điều 7 về nhân sự được sửa đổi theo đó đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên được quyết định vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc theo quy định của Luật Viên chức (người viết nhấn mạnh), phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Quy định như vậy sẽ tránh được khả năng tùy tiện, dễ dãi hoặc vô trách nhiệm như trong quy định hiện nay, theo đó đơn vị sự nghiệp công quyết định số người làm việc và trình cơ quan có thẩm quyền quyết định mà không hiếm khi dẫn đến những sai trái trong việc tuyển dụng và bổ nhiệm nhân lực trong các cơ quan này. Mọi việc bố trí nhân sự trong tương lai sẽ phải theo đúng quy định thống nhất trong Luật Viên chức để không có chỗ cho những biện minh do, ví dụ, “đặc thù” để làm trái như trước đây.

Tương tự, dự thảo cũng loại bỏ dòng “… trên cơ sở định biên bình quan 05 năm trước…” và “… đối với các đơn vị sự nghiệp công lập mới thành lập, thời gian hoạt động chưa đủ 05 năm thì tính bình quân cả quá trình hoạt động…” trong khoản 1 điều 7. Quy định mới như vậy sẽ giúp tránh được tình trạng đơn vị sự nghiệp công lập tiếp tục có bộ máy phình to do được áp dụng mức bình quân trong các năm trước là các năm rất có thể đã có sự dư thừa, tuyển dụng sai trái của họ.

Dự thảo còn bổ sung thêm khoản 3 điều 7 quy định riêng về số lượng cấp phó của đơn vị sự nghiệp. Đây cũng là một điều chỉnh nhằm hạn chế tình trạng “lạm phát” cấp phó trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, nếu đã có quy định như vậy thì cũng nên có thêm quy định để hạn chế việc “lạm phát” cả cấp trưởng (trưởng phòng, trưởng ban, quyền/hàm trưởng phòng/ban…) vì đây cũng là một kẽ hở để bộ máy của các cơ quan này tiếp tục phình to.

Cuối cùng, dự thảo có bổ sung thêm cả một chương về áp dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, cũng như đơn vị sự nghiệp công tự bảo đảm chi thường xuyên. Đây là một sự bổ sung cần thiết bởi khi đã tự chủ tài chính thì các đơn vị sự nghiệp công lập cần hạch toán doanh thu, chi phí và lợi nhuận như một doanh nghiệp để hoàn thành nghĩa vụ thuế và đóng góp với nhà nước.

Điều đáng lưu ý trong chương nói trên là nội dung khá thiên lệch của nó, vì hầu như chỉ đề cập đến vấn đề tiền lương và phân phối lợi nhuận, trong khi vấn đề cốt yếu – những giá trị mà nhà nước đã đầu tư, đã bỏ ra và hậu thuẫn để đơn vị sự nghiệp công lập có được cái ngày chúng trở nên tự chủ được về tài chính, bảo đảm chi thường xuyên (và chi đầu tư) lại không được đề cập đến. Chỉ lấy riêng một ví dụ là một bệnh viện công nào đó nay được tự chủ tài chính, tự đầu tư và “kinh doanh” thành công thì không thể không đề cập đến vai trò và nguồn đầu tư to lớn của nhà nước (vào cơ sở vật chất, con người…) đã tạo dựng nên thương hiệu bệnh viện đó với tư cách chẳng hạn như bện viện đầu ngành, tuyến trên, hoặc đơn giản chỉ là một bệnh viện (công) của nhà nước với uy tín hơn hẳn bệnh viện tư nên hấp dẫn hơn với nhiều bệnh nhân có điều kiện chi trả.

Nếu những giá trị trên (bao gồm dưới dạng, ví dụ, giá trị thương hiệu) không được hạch toán đầy đủ một cách hợp lý vào chi phí mà doanh nghiệp phải hoàn trả cho nhà nước, hoặc vào vốn điều lệ thì phần lợi nhuận được giữ lại của doanh nghiệp sẽ trở nên lớn hơn một cách không đúng đắn, xác đáng, gây thiệt hại, thất thoát cho nhà nước.
Do đó, dự thảo cần thiết bổ sung quy định về (nguyên tắc) xác định giá trị vốn nhà nước và những giá trị liên quan nhà nước mang lại để phân bổ hợp lý vào chi phí và lợi nhuận mà doanh nghiệp được hưởng.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).