Sunday 24 February 2019

Đưa kinh tế chưa quan sát vào GDP: Dư địa đầu tư công sẽ tăng, nhưng không ổn (Bài đăng trên TBKTSG, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/285396/dua-kinh-te-chua-quan-sat-vao-gdp-du-dia-dau-tu-cong-se-tang-nhung-khong-on.html


Chính phủ đang chủ trương tính lại GDP bằng cách bao gồm cả kinh tế ngầm và kinh tế không chính thức nhằm tăng quy mô GDP và từ đó (làm cơ sở) tăng dư địa nợ công để đầu tư cho nhu cầu phát triển (1).

Trước khi đi vào phân tích sâu hơn, cần hiểu logic của chủ trương này theo dòng chảy sau: Dựa vào tiêu chuẩn và kinh nghiệm thế giới Việt Nam tự đặt ra mức trần nợ công là 65% GDP. Nay nợ công đã tăng mấp mé mức này, nên nếu muốn tăng dư địa vay nợ thêm thì có một cách là phải điều chỉnh trần nợ công tăng lên. Nhưng cách này rất không ổn, vì trần nợ công đã được Quốc hội phê duyệt và Chính phủ cam kết nhất trí phấn đấu thực hiện. Nếu phải điều chỉnh lại trần nợ công thì Chính phủ sẽ mất uy tín. Cách còn lại để tăng dư địa cho nợ công là phải tăng giá trị của mẫu số là GDP. Nhưng tăng GDP cũng có giới hạn vì các nguồn lực đã và đang được khai thác triệt để, nên để đạt và duy trì tăng trưởng GDP ở mức, ví dụ, 7%/năm đã là một việc khó, đầy thử thách. Cách nhanh nhất và tiện lợi nhất để GDP tăng vọt trong một đêm, nhờ đó làm dư địa cho nợ công cũng tăng vọt theo, là đưa thêm các hoạt động kinh tế không thống kê được trước đây vào GDP. Đó chính là cơ sở của yêu cầu bổ sung kinh tế ngầm, kinh tế phi chính thức vào GDP.

Từ logic theo dòng chảy trên có thể thấy nếu Chính phủ cố gắng đưa các hoạt động kinh tế không thống kê được vào GDP (ở đây ta không nói đến chuyện có thống kê được các hoạt động kinh tế này hay không) thì việc tính trần nợ công thể hiện bằng tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ trở nên không tương thích với phương pháp của thế giới. Bởi phương pháp của thế giới là chỉ dùng GDP chính thức (gồm các hoạt động kinh tế chính thức, thống kê, quan sát được). Thế giới tất nhiên cũng có kinh tế ngầm, kinh tế phi chính thức nhưng hầu như không có nước nào tìm cách tính và gộp các hoạt động này vào GDP chính thức. Và chắc chắn cũng không có nước nào đặt ra trần nợ công dựa trên GDP mở rộng (gồm cả kinh tế phí chính thức và kinh tế ngầm).

Thêm nữa, cho dù sẽ tính được quy mô kinh tế ngầm, kinh tế phi chính thức và gộp chúng vào GDP chính thức công bố hàng năm thì cách làm này cũng chỉ làm tăng quy mô GDP tổng hợp công bố lên đột ngột trong năm đầu tiên khi áp dụng cách tính mới này. Từ những năm sau đó, quy mô GDP tổng hợp sẽ không còn những bước tăng kiểu “nhảy vọt” nữa bởi các hoạt động kinh tế cả chính thức lẫn phi chính thức đều đã được thống kê đầy đủ, và tốc độ tăng GDP tổng hợp này hàng năm sẽ trở lại mức tự nhiên (ví dụ, GDP chính thức sẽ tăng quanh quẩn 7%/năm).

Như vậy, dù với cách làm phi tiêu chuẩn trên, một kiểu để lách luật, thì dư địa nợ công cũng sẽ chỉ tăng vọt một lần duy nhất rồi sau đó quay trở lại trạng thái bị kiềm chế như lúc trước khi thay đổi cách tính GDP. Nói cách khác, cách lách luật trên sẽ không giúp ích cho việc đảm bảo an toàn nợ công trong dài hạn khi mà biện pháp quan trọng, hữu hiệu và cần làm nhất là kiềm chế và nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công, chỉ vay nợ trong trường hợp thật cần thiết lại không được thực hiện rốt ráo. Nợ công vì thế mà sẽ tiếp tục tăng nhanh, tăng mạnh, cho đến lúc ngay cả với mẫu số đã phình to một cách đột ngột là GDP tính theo cách mới cũng vẫn làm cho nợ công nhanh chóng chạm ngưỡng trần.  

Cũng vì không phải là mức và cách làm tiêu chuẩn so với thế giới nên dù Chính phủ có thành công với việc tính lại và làm tăng vọt GDP của Việt Nam một cách đột ngột thì lúc đó, về nguyên tắc, mức trần nợ công 65% mà Quốc hội đặt ra cho Chính phủ thực hiện như hiện tại sẽ không còn thích hợp và xác đáng nữa. Đó là do con số 65% này được Quốc hội đưa ra dựa trên tiêu chuẩn và kinh nghiệm của thế giới, dựa trên cách tính GDP chính thống mà không bao gồm kinh tế phi chính thức và kinh tế ngầm.

Vì vậy, cũng về nguyên tắc, khi Chính phủ tính lại GDP theo cách gộp cả kinh tế phi chính thức và kinh tế ngầm thì Quốc hội cần phải ban hành một nghị quyết mới trong đó quy định một mức trần nợ công mới thấp hơn mức 65% hiện tại để đảm bảo nợ công luôn được khống chế trong phạm vi an toàn, phù hợp với mức trả nợ của ngân sách (dựa phần lớn vào thu thuế và các khoản thu thường xuyên khác xuất phát từ các hoạt động kinh tế quan sát, thống kê được, chứ không phải là kinh tế phi chính thức và kinh tế ngầm). 

Lúc đó, cho dù Chính phủ quyết tâm và thành công trong việc tính lại GDP thì dư địa nợ công không vì thế mà tăng lên tương ứng. Do vậy, và kết hợp thêm với chuyện tính toán lại GDP sẽ làm hao tổn một nguồn lực một cách không cần thiết, chủ trương tính lại GDP cần được xem xét lại một cách thấu đáo và hủy bỏ trước khi được thực thi một cách dang dở.

(1)  https://dantri.com.vn/kinh-doanh/tong-cuc-thong-ke-khong-the-thong-ke-duoc-kinh-te-ngam-phi-phap-20180119140922424.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).