Thursday 28 March 2019

Siết cho vay tiêu dùng tại các công ty tài chính, bỏ ngỏ ngân hàng? (Bài đăng trên CafeF, 28/3/2019)

http://cafef.vn/siet-cho-vay-tieu-dung-tai-cac-cong-ty-tai-chinh-bo-ngo-ngan-hang-20190328085046726.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến dự thảo thông tư sửa đổi thông tư số 43/2016/TT-NHNN quy định về cho vay tiêu dùng của công ty tài chính (sau đây gọi tắt là dự thảo). Theo đó, dự thảo quy định công ty tài chính chỉ được giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay đối với khách hàng đã và đang vay tại công ty tài chính đó, được đánh giá có lịch sử trả nợ tốt theo quy định nội bộ của công ty tài chính và không có nợ xấu theo kết quả phân loại nhóm nợ của Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam đến thời điểm gần nhất tính từ thời điểm ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng.
Đồng thời, công ty tài chính phải đảm bảo tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay không vượt quá 30% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của công ty tài chính. Lý do là vì, theo NHNN, cho vay giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay có rủi ro cao, khó kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay, nên cần hướng đến khách hàng đã vay tại công ty tài chính và có lịch sử trả nợ tốt.
Động thái trên của NHNN, xét trên khía cạnh quản lý rủi ro, là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, tác động của động thái này đến những lĩnh vực, khía cạnh khác mới là điều đáng nói.
Thứ nhất, và có ý nghĩa rất quan trọng, động thái trên có thể cản trở mục tiêu dùng tín dụng chính thức để đẩy lùi tín dụng đen mà chính NHNN đang nỗ lực thúc đẩy, thông qua những giải pháp mà một trong số đó chính là việc thúc đẩy cho vay tiêu dùng của công ty tài chính nhằm đẩy mạnh cho vay tiêu dùng tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, góp phần hạn chế tình trạng tín dụng đen ở các địa bàn này.
Cần lưu ý là người vướng vào tín dụng đen thường là người có nhu cầu vay tiền mặt ngay, chứ không phải là người vay tiền để mua hàng hóa và dịch vụ (vay mua trả góp, vay qua thẻ tín dụng v.v...) nên nếu siết lại việc cho vay giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay của công ty tài chính thì người dân càng buộc phải "trông chờ" vào tín dụng đen để giải quyết nhu cầu vay nóng cấp bách của họ.   
Nói cách khác, ở đây đã có sự mâu thuẫn. Nếu NHNN siết việc cho vay tiêu dùng của các công ty tài chính thì chủ trương chống tín dụng đen của NHNN sẽ càng khó thành hiện thực, vì NHNN đã tự hạn chế sự phát triển của một công cụ có thể nói là chủ yếu để chống tín dụng đen trong khi chỉ còn công cụ đáng kể khác là tín dụng ngân hàng.
Thứ hai, dự thảo quy định công ty tài chính chỉ được giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay đối với khách hàng đã và đang vay tại công ty tài chính đó, được đánh giá có lịch sử trả nợ tốt theo quy định nội bộ của công ty tài chính và không có nợ xấu. Quy định này càng hạn chế hơn nữa vai trò của công ty tài chính trong việc chống tín dụng đen.
Những người đã phải tìm đến tín dụng đen thường là những người không thể tiếp cận được ngân hàng hay thậm chí là công ty tài chính. Như vậy, người có nhu cầu vay tín dụng đen thường hoặc không phải là khách hàng đã và đang vay tại công ty tài chính, hoặc không có lịch sử tín dụng tốt, hoặc có nợ xấu. Do đó, nếu NHNN buộc công ty tài chính loại bỏ những đối tượng vay tiềm năng này thì rõ ràng là họ chỉ còn cách tiếp cận tín dụng đen (dù, xin nhấn mạnh lại, việc loại bỏ này là hoàn toàn hợp lý từ góc độ quản lý rủi ro).   
Thứ ba, nói về tín dụng ngân hàng, NHNN cũng đã có chủ trương dùng tín dụng ngân hàng để chống tín dụng đen, bằng những giải pháp như nâng gấp đôi hạn mức cho vay không có tài sản bảo đảm với khách hàng cá nhân, hộ gia đình (lên tới 200 triệu đồng); yêu cầu tổ chức tín dụng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn mở rộng khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ ngân hàng.
Điều đáng nói là với cùng một logic như áp dụng trong dự thảo với công ty tài chính, việc ngân hàng tăng cường cho vay tín chấp, cho vay không có tài sản đảm bảo sẽ là rất rủi ro (rủi ro thậm chí không khác gì so với việc công ty tài chính cho vay tiêu dùng), nên việc này cũng cần bị hạn chế, ít nhất thì cũng ở việc quy định tổng dư nợ cho vay của ngân hàng với khách hàng vay không có tài sản bảo đảm không được vượt quá 30% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng của ngân hàng đó (mặc dù, trên thực tế, hạn mức này sẽ hiếm khi bị vi phạm vì có thể ngân hàng sẽ không mặn mà cho vay tín chấp, không tài sản bảo đảm).
Cuối cùng, cũng tương tự như với công ty tài chính, để hạn chế rủi ro cho ngân hàng nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung thì NHNN cần phải quy định ngân hàng chỉ được cho vay tín chấp, không có tài sản bảo đảm với khách hàng đã và đang là khách hàng tại ngân hàng đó, có lịch sử tín dụng tốt và không có nợ xấu.
Tóm lại, NHNN cần nhất quán và có mục tiêu cụ thể trong 2 mục tiêu có xung đột là bảo đảm an toàn hệ thống tài chính tiền tệ và chống tín dụng đen.
Và nếu thấy yêu cầu bổ sung nêu trên với ngân hàng trong việc cho vay tín chấp, không tài sản bảo đảm, là quá ràng buộc, quá chặt chẽ và không cần thiết thì phải chăng sự thay đổi như trong dự thảo cũng là không cần thiết?    

Saturday 23 March 2019

Đã đến lúc “rà phanh” giá nhà, đất (Bài đăng trên TBKTSG, 23/3/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/286438/da-den-luc-ra-phanh-gia-nha-dat.html

Đầu cơ bất động sản xem ra là căn bệnh mãn tính khó chữa ở Việt Nam và đây là một trong những nguyên nhân chính khiến giá bất động sản liên tục bị đẩy lên những đỉnh mới, khiến cho cơ hội “an cư” của người làm công ăn lương ngày một xa vời.

Chuyện đầu cơ bất động sản không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà tồn tại ở nhiều nước khác. Trong khu vực thì phải kể đến Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Indonesia, Úc... Nhưng với các giải pháp nhằm “xì hơi” bong bóng bất động sản được mạnh tay thực thi, nhiều nước đã thành công trong việc đưa giá bất động sản trở về gần mặt đất hơn.
Giải pháp của Úc, Singapore, Trung Quốc
Giá nhà ở Úc đã giảm mạnh trong năm 2018. Tại Sydney và Melbourne, giá nhà đã lần lượt giảm 11,1% và 7,2% so với đỉnh điểm năm 2017 và đã quay trở về với mức của năm 2016. Dù có một số khác biệt về các yếu tố nâng đỡ giá cả như tăng trưởng dân số và việc làm, nhưng nguyên nhân chính kéo giá nhà xuống là tín dụng ngân hàng vào bất động sản bị thắt chặt do điều kiện cho vay khắt khe hơn.
Cụ thể, bên cạnh hạn mức tăng trưởng tín dụng cho bất động sản là 10% áp dụng từ năm 2014, cơ quan chức năng Úc từ năm 2016 đã ban hành thêm hạn mức cho loại hình vay mua bất động sản chỉ trả lãi định kỳ (hình thức vay ưa thích của giới đầu tư/đầu cơ) ở mức 30% trên tổng tín dụng bất động sản.
Ngân hàng nào vượt mức 30% này buộc phải chuyển một phần con nợ dưới hình thức chỉ trả lãi định kỳ sang hình thức trả góp gốc và lãi định kỳ, buộc họ phải giải phóng bất động sản ra thị trường vì không có khả năng trang trải tiền lãi và gốc hàng tháng.
Ngoài ra, từ đầu năm 2018, cơ quan chức năng Úc cũng yêu cầu ngân hàng hạn chế cho vay khách hàng đang nợ nần nhiều hoặc có tỷ lệ nợ/tổng thu nhập lớn.
Tại Singapore, giá nhà, sau khi sụt giảm liên tục từ đầu thập kỷ này do chính phủ áp dụng hàng loạt biện pháp bất lợi cho giới đầu tư, đã có xu hướng tăng mạnh trở lại từ đáy hồi quí 2-2017, trước khi đi ngang kể từ quí 3-2018 do chính phủ áp dụng thêm một số chính sách thắt chặt mới hồi tháng 7-2018.
Những chính sách này gồm cộng thêm 5 điểm phần trăm vào khung thuế đánh lên người mua nhà thứ hai trở lên (càng có nhiều nhà thì thuế suất càng lớn; với doanh nghiệp thì thêm 10 điểm phần trăm), giảm thêm tỷ lệ vay/giá mua nhà áp dụng cho người vay mua nhà (ở nhiều mức, tùy độ dài khoản vay và số bất động sản đã sở hữu). Chính phủ ước tính nếu không có những biện pháp bổ sung kịp thời này thì giá nhà ở Singapore đã phải tăng thêm từ 10-15% vào cuối năm 2018 so với năm 2017.
Còn tại Trung Quốc, giá nhà đã chững lại đáng kể từ hồi tháng 8-2018 sau khi Bộ Chính trị nước này tuyên bố quyết tâm không để giá nhà tăng (thay vì chủ trương trước đó là không để giá nhà “tăng quá mức”). Những giải pháp hạ nhiệt được áp dụng gồm thắt chặt điều kiện để được sử dụng quỹ hưu trí mua nhà tại các thành phố lớn.
Trước đó, nhiều địa phương đã hạn chế số bất động sản được mua, cấm bán lại bất động sản mới mua trong vòng hai đến năm năm, cấm mua căn hộ tại một số thành phố nếu không có hộ khẩu, hoặc nếu không trả thuế thu nhập và bảo hiểm xã hội trong một số năm...
Việt Nam cũng có...
Giá bất động sản ngày càng trở nên quá cao với nhiều dân thường tại Việt Nam dù các cơ quan chức năng cũng ít nhiều áp dụng một số giải pháp tương tự các nước nói trên. Về tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nhiều lần tìm cách siết chặt tín dụng ngân hàng chảy vào lĩnh vực bất động sản bằng nhiều giải pháp như nâng hệ số rủi ro cho vay kinh doanh bất động sản, giảm tỷ lệ tối đa sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn, hoặc ra văn bản yêu cầu hạn chế cho vay bất động sản.


Như kinh nghiệm các nước trên cho thấy, thắt chặt tín dụng luôn là một trong những công cụ chủ yếu để cắt nguồn nuôi dưỡng nạn đầu cơ bất động sản. Bởi vậy, hy vọng là với việc tỷ lệ tối đa vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn tiếp tục được hạ từ 45% xuống còn 40% từ ngày 1-1-2019, giá bất động sản sẽ bị kìm hãm phần nào.
Tuy nhiên, cũng từ kinh nghiệm các nước cho thấy NHNN cần phải mạnh tay hơn bằng cách trực tiếp buộc các ngân hàng phải hạn chế cho vay bất động sản thông qua siết chặt những hạn mức như tỷ lệ tối đa vốn vay/giá mua, phối hợp với các tổ chức theo dõi, cung cấp số liệu tín dụng của cá nhân và tổ chức để xác định rõ mức nợ nần của người vay để xác định chính xác hạn mức tín dụng còn lại.
Đồng thời, bên cạnh quy định về tỷ lệ tối đa vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn và hệ số rủi ro cho vay bất động sản, NHNN cần trực tiếp khống chế các ngân hàng cho vay bất động sản bằng những hạn mức khác như tỷ lệ tối đa cho vay bất động sản trên tổng tín dụng.
Kinh nghiệm của các nước còn cho thấy giải pháp tín dụng cần phải được đi kèm bởi những giải pháp thuế khóa và hành chính. Theo hướng này, các cơ quan chức năng khác ở Việt Nam cũng đã “quyết liệt vào cuộc”. Điều đáng nói là không hiểu vì lý do gì mà sự vào cuộc của họ chủ yếu diễn ra trên giấy, với hàng loạt (nhóm) giải pháp từ giải pháp pháp lý, bộ máy quản lý, quy hoạch sử dụng đất, tài chính, đến giải pháp đầu tư và cải cách hành chính được đề xuất, kiến nghị từ... hàng chục năm trước mà đến nay phần lớn vẫn chưa được hiện thực hóa(1).
Sự bất lực của các cơ quan chức năng trong việc đưa ra và thực thi các giải pháp hạn chế đầu cơ bất động sản cho thấy có lý do bị cản trở bởi các nhóm lợi ích không muốn giá bất động sản giảm. Nhiều người viện cớ cho rằng thị trường bất động sản trầm lắng, giá bất động sản giảm sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hàng loạt ngành liên quan; giá trị tài sản của người dân suy giảm dẫn đến giảm sức mua, tác động ngược trở lại tăng trưởng kinh tế; giá bất động sản giảm sẽ làm giảm khả năng trả nợ vay ngân hàng của nhà đầu tư/đầu cơ... Nên mỗi khi cơ quan chức năng đề xuất một giải pháp nào đó thì những nhóm người này lại lên tiếng phản đối, thậm chí “kêu cứu”.
Đương nhiên là các biện pháp mạnh tay, được ban hành và thực thi quá gấp gáp sẽ “phanh” đột ngột thị trường bất động sản, có thể gây ra những đổ vỡ không mong muốn. Nên việc cần làm trong thời điểm hiện nay là “rà phanh” bằng việc áp dụng từng bước theo hướng ngày càng chặt hơn các giải pháp tiền tệ, thuế và hành chính nêu ở trên để chặn đà tăng và hướng đến duy trì ổn định giá bất động sản. Việc này cũng sẽ có tác dụng làm giảm tâm lý đầu cơ đón đầu sự tăng mạnh giá bất động sản trong tương lai.
(1) https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/chong-dau-co-de-thi-truong-bat-dong-san-phat-trien-lanh-manh-74752.htm

Miễn giảm lãi vay cho khách bị thiệt hại vì dich tả lợn châu Phi: Xác đáng nhưng cần tránh thất thoát ( Bài đăng trên CafeF, 23/3/2019)

http://cafef.vn/mien-giam-lai-vay-cho-khach-bi-thiet-hai-vi-dich-ta-lon-chau-phi-xac-dang-nhung-can-tranh-that-thoat-20190323143547195.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đưa ra yêu cầu các tổ chức tín dụng và NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi. Theo đó, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sau dịch kết thúc v.v... đối với những gia đình bị ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi.
NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố được yêu cầu nắm sát diễn biến dịch trên địa bàn, chỉ đạo các tổ chức tín dụng kịp thời thống kê dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, dư nợ bị thiệt hại do dịch tả lợn châu Phi gây ra để chủ động có biện pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn cho người chăn nuôi lợn. Đồng thời, phối hợp với các Sở, ban, ngành kịp thời tham mưu cho Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố các giải pháp xử lý rủi ro, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho người chăn nuôi lợn theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
Chỉ đạo trên của NHNN là phù hợp với định hướng thúc đẩy và phát triển các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Định hướng này được cụ thể hóa trước tiên ở những giải pháp yêu cầu các tổ chức tín dụng tăng cường cho vay các lĩnh vực ưu tiên. Do các lĩnh vực ưu tiên này có nhiều rủi ro, chẳng hạn trong lĩnh vực nông nghiệp thì có thiên tai, dịch bệnh, mất mùa hoặc tồn ứ sản phẩm, nên NHNN buộc phải có thêm những giải pháp khác để giảm rủi đầu tư vào các lĩnh vực này.
Trong trường hợp ngành chăn nuôi lợn, NHNN có giải pháp yêu cầu các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn, miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới với người chăn nuôi chịu thiệt hại bởi dịch tả lợn châu Phi nhằm giảm thiệt hại và khích lệ người dân và doanh nghiệp tiếp tục đầu tư và phát triển chăn nuôi, không vì rủi ro dịch bệnh (và mất giá) mà thoái lui khỏi ngành.
Tuy nhiên, đến đây, một câu hỏi sát sườn được đặt ra là, vậy quyền lợi của các tổ chức tín dụng thì giải quyết thế nào?
Như đã nói, rủi ro cao trong ngành chăn nuôi nói riêng, nông nghiệp nói chung thường sẽ làm "chùn bước" các tổ chức tín dụng, bởi họ không thể mạo hiểm ném vốn vào những lĩnh vực mà khả năng trả nợ của người vay phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố khó hoặc không kiểm soát được. Nên lẽ thường tình khi NHNN muốn khuyến khích các tổ chức tín dụng tăng cường cho vay nông nghiệp thì NHNN buộc phải chìa ra "củ cà rốt" để các tổ chức tín dụng trở nên tích cực hơn với ngành nông nghiệp. Những đãi ngộ từ NHNN như vậy có thể là những gói tín dụng ưu đãi cho nông nghiệp có nguồn gốc từ NHNN mà các tổ chức tín dụng thực tế chỉ đóng vai là kênh phân phối, hoặc những ưu đãi dưới dạng này hay dạng khác gồm, ví dụ, quota tăng trưởng tín dụng cao hơn.
Điều dường như nghịch lý là trong trường hợp xấu như khi nổ ra dịch tả lợn châu Phi, NHNN lại yêu cầu các tổ chức tín dụng tiến hành xem xét giãn nợ, cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất cho vay v.v... Tức là NHNN dường như đang "làm khó" thêm các tổ chức tín dụng đang phải đối mặt với khả năng không thu hồi được nợ do dịch bệnh?
Thực ra, trong chỉ đạo của NHNN, có chi tiết chi nhánh NHNN các tỉnh thành phố phối hợp với các cơ quan chức năng và các địa phương có các giải pháp xử lý rủi ro, tháo gỡ khó khăn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP và Nghị định 116/2018/NĐ-CP của Chính phủ.
Theo đó thiệt hại của các tổ chức tín dụng đến từ việc khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất cho người vay chịu thiên tai, dịch bệnh sẽ được bù đắp bởi ngân sách nhà nước. Cụ thể hơn, Nghị định 116 quy định: "Số tiền lãi tổ chức tín dụng không thu được do đã thực hiện khoanh nợ cho khách hàng được ngân sách nhà nước cấp tương ứng từ ngân sách địa phương. Trường hợp ngân sách địa phương khó khăn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ từ dự phòng ngân sách trung ương".
Như vậy, nếu thực hiện theo đúng yêu cầu và chỉ đạo của NHNN thì các tổ chức tín dụng khi tăng cường cho vay các lĩnh vực ưu tiên sẽ, về nguyên tắc, hầu như không phải chịu thiệt hại đáng kể nào dù rủi ro cho vay là cao. Bởi, rốt cuộc mọi thiệt hại và rủi ro đều được ngân sách nhà nước trung ương và địa phương "gánh hộ".
Điều đáng nói còn lại ở đây là tránh thất thoát từ chủ trương xóa nợ, giãn nợ, giảm lãi này. Khi dịch tả lợn châu Phi mới nổ ra, đã có những đề xuất nhà nước trợ cấp, đền bù cho người chăn nuôi có lợn bị tiêu hủy vì dịch một tỷ lệ nào đó so với giá thị trường (chẳng hạn 80% giá thị trường). Nếu giải pháp này được thực thi, sẽ có nhiều trường hợp hộ/doanh nghiệp chăn nuôi được hưởng lợi hai lần, từ trợ cấp trực tiếp cho lợn bị tiêu hủy, và từ việc được tổ chức tín dụng xóa nợ, khoanh, giãn nợ, giảm lãi vay v.v...
Và cũng không loại trừ khả năng có sự thông đồng, cấu kết giữa hộ/doanh nghiệp chăn nuôi với cán bộ ngân hàng và của cơ quan hữu quan để khai khống thiệt hại, làm tăng khoản đền bù từ ngân sách.
Với những rủi ro thất thoát nêu trên và những rủi ro thất thoát khác, NHNN cũng nên có thêm chỉ đạo và phối hợp các đơn vị, cơ quan chức năng có các biện pháp thanh tra, giám sát, kiểm soát các hành vi trục lợi từ một chủ trương đúng để giảm thiểu thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Đây là điều rất quan trọng nhưng vẫn còn thiếu vắng trong định hướng và chỉ đạo của không chỉ của NHNN mà còn của nhiều cơ quan hữu quan khác, trong khi thực tế cho thấy nhiều chủ trương, giái pháp tương tự của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương từ trước đến nay thường xuyên bị trục lợi.

Thursday 21 March 2019

Tín dụng đen sẽ “trường tồn”! (Bài đăng trên TBKTSG, 22/3/2019, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/286445/tin-dung-den-se-truong-ton-.html

Trước khi nói về tín dụng đen ở Việt Nam, xin được bắt đầu với thực tế ở Singapore. Không cần nói lại rằng luật pháp Singapore chặt chẽ, nghiêm minh thế nào nên bất cứ cái gì được gắn với chữ “đen” hoặc tương tự như vậy, với cái nghĩa bất hợp pháp, ngoài vòng pháp luật, sẽ không được luật pháp và hệ thống thực thi pháp luật hiệu quả của nước này bỏ qua, tha thứ. 
Và cũng không cần phải nói rằng Singapore có một hệ thống tài chính ngân hàng phát triển thuộc dạng tiên tiến của thế giới, sẵn sàng đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu tín dụng đa dạng của người dân và doanh nghiệp.
Vậy mà tín dụng đen, hay còn được biết đến dưới tên gọi “loansharking”, vẫn cứ tồn tại như thường ở Singapore. Điều này thể hiện không chỉ ở những cảnh báo về hậu quả của tín dụng đen mà chính quyền đặt khắp nơi, đặc biệt ở những khu dân cư (xem ảnh), mà còn ở những bảng thông báo của cảnh sát thỉnh thoảng thấy ở bên lề của một con đường nào đó có nhiều người qua lại, thông báo rằng khu vực này đã có hoạt động tín dụng đen bị phát hiện.
Thực tế trên chứng tỏ tín dụng đen luôn tồn tại và có đất sống ở mọi xã hội, bất chấp trình độ phát triển của quốc gia và sự hoàn thiện của hệ thống tài chính ngân hàng.
Tín dụng đen ở Việt Nam vì vậy cần được nhận thức rằng sẽ “trường tồn”, và mọi cuộc chiến/chiến dịch chống tín dụng đen ở Việt Nam chắc chắn sẽ không có hồi kết, dù có sự “vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị” (chủ yếu từ những nỗ lực của hệ thống tài chính, ngân hàng như báo chí phản ánh trong thời gian gần đây).
Thực tế ở Singapore cho thấy khách hàng nào, nhu cầu nào thì có “nhà cung cấp” tương ứng ở phân khúc đó, thị trường đó. Rõ ràng là người dân Singapore bình thường nói chung có giáo dục cao, nhận thức xã hội tốt, thừa sức hiểu hậu quả của việc vướng vào tín dụng đen (như là một phần kết quả của sự tuyên truyền, giáo dục và cảnh báo hiệu quả của chính quyền). Nhưng việc vẫn có (nhiều) người tìm đến tín dụng đen chứng tỏ có những nhu cầu tín dụng mà hệ thống tài chính, ngân hàng dù đã rất phát triển cũng không thể đáp ứng được.
Ở Việt Nam cũng sẽ là như vậy. Hy vọng dùng tín dụng ngân hàng (và kể cả tài chính vi mô, tài chính/tín dụng tiêu dùng, cho vay ưu đãi người nghèo...) để chống/loại trừ tín dụng đen sẽ luôn chỉ là hy vọng, vì tín dụng ngân hàng không bao giờ bao phủ được toàn bộ thị trường tín dụng gồm cả tín dụng phi chính thức. Có chăng, chỉ nên hy vọng, một cách có cơ sở hơn, là tín dụng chính thức từ ngân hàng, tổ chức tài chính sẽ góp phần hạn chế sự phát triển của tín dụng đen.


Cũng cần lưu ý về cách thức chống tín dụng đen. Ở Singapore hay nhiều nước khác, việc công nhận và cấp phép hoạt động các tổ chức tài chính, các hình thức cho vay mới (ví dụ, cho vay ngang hàng), phối hợp với sự theo dõi, giám sát, kiểm soát chặt chẽ của h thống thực thi pháp luật gồm lực lượng cảnh sát, tòa án, và cơ quan chức năng về tiền tệ... là những giải pháp chính được thực thi.
Họ không có những giải pháp phi thị trường như thúc giục, bắt buộc các ngân hàng, tổ chức tài chính hạ chuẩn cho vay, cho vay “nóng”, nâng hạn mức và kéo dài thời gian cho vay, phải dành một tỷ lệ vốn nhất định để cho vay những đối tượng “ưu tiên” gồm, ví dụ, hộ nghèo, đối tượng chính sách, có nhu cầu đột xuất...
Không ai hiểu rõ thị trường, hiểu rõ khách hàng vay tín dụng hơn là những doanh nghiệp, những người trực tiếp hàng ngày cho vay, tiếp xúc với khách hàng vay. Việc hạ chuẩn cho vay và tích cực cho vay các đối tượng dưới chuẩn một cách phi thị trường sẽ chỉ mang lại hậu quả hoặc là nợ xấu tăng vọt, hoặc là Nhà nước phải dùng ngân sách một cách trực tiếp hay gián tiếp để “bù lỗ” cho hệ thống ngân hàng để xóa nợ xấu gia tăng như là hậu quả của việc phải thực thi các giải pháp phi thị trường chống tín dụng đen.
Ngoài ra, có một điểm lưu ý quan trọng là Singapore và nhiều nước khác không áp đặt trần lãi suất cho vay. Điều này thể hiện rõ nguyên tắc thị trường là “tiền nào của nấy” - lãi suất được quyết định chủ yếu bởi mức độ rủi ro của khách hàng trong việc trả nợ. Nhờ nguyên tắc này mà phần lớn các nhu cầu tín dụng trong xã hội được đáp ứng bởi hệ thống tài chính, tín dụng chính thức, chỉ để lại một khoảng trống nhất định cho tín dụng đen hoạt động.
Do vậy, nếu Việt Nam vẫn cứ tiếp tục áp đặt trần lãi suất cho vay như hiện tại, hoặc tìm cách sửa đổi, áp đặt một trần mới, thì sẽ dẫn đến hậu quả không mong muốn là nhiều nhu cầu tín dụng của người dân (và cả doanh nghiệp) sẽ không được đáp ứng, giả sử mức trần lãi suất được thực thi nghiêm minh, sâu rộng. Điều này vô hình trung đẩy nhiều người dân càng phải tìm đến tín dụng đen, đi ngược lại chủ trương dùng tín dụng chính thức để chống tín dụng đen.

Monday 11 March 2019

Quy định về đại diện chủ sở hữu nhà nước: Chưa đảm bảo tinh gọn, hiệu quả (Bài đăng trên TBKTSG, 12/3/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/285967/quy-dinh-ve-dai-dien-chu-so-huu-nha-nuoc-chua-dam-bao-tinh-gon-hieu-qua-.html

Chính phủ mới đây đã ban hành Nghị định 10/2019 quy định về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước. Nghị định này thay thế cho Nghị định 99/2012 về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy vậy, Nghị định 10 vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, đặc biệt là chưa đảm bảo tinh thần tinh gọn, hiệu quả trong việc tái cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đang diễn ra.

Chồng chéo giữa SCIC và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Nghị định 10 quy định cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước gồm Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLVNN), các bộ và cơ quan ngang bộ đại diện đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).
Trong khi đó, theo giải trình của Chính phủ trước Quốc hội về mối quan hệ giữa UBQLVNN và SCIC, Chính phủ cho biết UBQLVNN là đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại SCIC. Nói cách khác, Bộ Tài chính phải bàn giao SCIC về UBQLVNN với tư cách đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước mới tại SCIC. Tuy vậy, SCIC vẫn là doanh nghiệp do đó vẫn hoạt động theo quy định của Chính phủ gồm tiếp tục tiếp nhận quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) còn lại (không thuộc danh mục tiếp nhận của UBQLVNN) và các công ty cổ phần từ cổ phần hóa DNNN.
Như vậy, điểm chồng chéo ở đây là có đến hai tổ chức cùng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, dù quy mô, đối tượng và phạm vi quản lý có khác nhau. Theo hướng tinh gọn bộ máy nhà nước thì cần tiến tới thống nhất chỉ còn một cơ quan như vậy (là UBQLVNN) và mọi doanh nghiệp cần chuyển giao về SCIC theo quy định hiện hành cần được chuyển về một mối là UBQLVNN như đúng mục đích thành lập ra UBQLVNN, chứ không nên có sự phân tách doanh nghiệp nào thì chuyển về UBQLVNN còn các doanh nghiệp còn lại thì chuyển về SCIC.
Thừa... một bộ?
Điều 5 Nghị định 10 quy định quyền, trách nhiệm của các cơ quan liên đới. Với Bộ Tài chính, họ có một số nhiệm vụ, bao gồm quy định về chuyển doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần; quy định việc quản lý tài chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; quy định tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; quy định việc giám sát, kiểm tra hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Trong khi đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao một số nhiệm vụ bao gồm quy định việc công khai thông tin về hoạt động của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; quy định về quy chế hoạt động của kiểm soát viên tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; quy định về thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể, bán toàn bộ doanh nghiệp và chuyển doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Không khó để thấy rằng nhiều quyền và trách nhiệm trên về mặt tính chất công việc là tương tự, có thể thực hiện tốt bởi duy nhất một bộ (có thể là Bộ Tài chính). Sẽ có không ít thắc mắc tại sao lại phải phân tách như vậy, và tại sao lại phải cần hai bộ thực hiện những công việc này? Việc phân tách này tạo cảm giác rằng chia sẻ quyền hạn và trách nhiệm nhằm mục đích để “có việc mà làm”, có cớ để tồn tại mới là động cơ chính. Và rõ ràng là nếu xét từ góc độ tinh giản bộ máy thì tồn tại này cần được khắc phục ngay.
Đã phân công, phân quyền, vẫn cứ dồn lên Thủ tướng
Điều 6 Nghị định 10 quy định hàng loạt quyền và trách nhiệm của Thủ tướng trong việc thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ thì hiển nhiên là Thủ tướng có quyền và trách nhiệm cao nhất trong lĩnh vực này. Tuy vậy, điều làm cho người ta “băn khoăn” là mới chỉ trong lĩnh vực này thôi mà Thủ tướng đã phải xét duyệt đủ loại đệ trình, đề nghị của các bộ tham mưu để ký ban hành, quyết định thực thi.
Thay vào đó, vì đã có sự phân công, phân quyền rõ ràng cho từng bộ, cơ quan chức năng, nên lẽ ra chỉ cần quy định Thủ tướng ủy quyền cho các cơ quan tham mưu này ban hành và thực hiện các chức năng liên quan đến việc thực hiện quyền và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước. Nếu không, những chuyện “con con” như việc đầu tư vốn nhà nước để thành lập doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn với lượng vốn ít ỏi (ví dụ, 50 tỉ đồng) mà Thủ tướng cũng phải đọc và ký duyệt hồ sơ đề nghị thành lập do cơ quan đại diện chủ sở hữu lập ra thì thật là...
UBQLVNN vẫn không được tự quyết
Liên quan đến phần trên, tuy UBQLVNN còn được gọi là “siêu ủy ban” bởi tầm vóc và quyền năng của nó trên lý thuyết (ít nhất là sự độc lập với các bộ và các cơ quan chức năng trong việc ra quyết định), nhưng thực tế ủy ban này có vẻ như không có mấy thực quyền với các doanh nghiệp nó quản lý. Ví dụ với SCIC, một doanh nghiệp được đặt dưới sự quản lý của UBQLVNN, việc bổ nhiệm Tổng giám đốc SCIC vẫn phải trải qua quá trình phối hợp với Bộ Nội vụ và “sau khi có ý kiến thống nhất của tập thể Ban cán sự Đảng Chính phủ” (rồi trình Thủ tướng bổ nhiệm).
Chưa hết, UBQLVNN vẫn phải “đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền trình Chính phủ: Ban hành, sửa đổi, bổ sung điều lệ của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập giao ủy ban làm đại diện chủ sở hữu theo quy định của Chính phủ; ban hành, sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý tài chính của tập đoàn Dầu khí Việt Nam và tập đoàn Điện lực Việt Nam”.
Như vậy, có thể nói việc UBQLVNN vẫn phải “xin ý kiến” của cơ quan này, “được sự thống nhất” của cơ quan kia cho những vấn đề thuộc phạm vi quản lý của mình đã cho thấy chủ trương thành lập UBQLVNN nói riêng và chủ trương tinh gọn và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét lại để có hướng khắc phục triệt để.

Tuesday 5 March 2019

Một số điểm đáng lưu ý trong chỉ đạo mở rộng tín dụng của Thủ tướng (Bài đăng trên CafeF, 6/3/2019)

http://cafef.vn/mo-rong-tin-dung-lieu-co-kha-thi-20190306101922062.chn

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2 tuần trước, Thủ tướng đã chỉ đạo "Để thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ hơn, bắt đầu ngay trong tháng 3 và quý 1 năm 2019, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ đạo mở rộng tín dụng, giảm lãi suất cho các lĩnh vực ưu tiên".
Trước chỉ đạo trên của Thủ tướng, có hai luồng ý kiến trái ngược. Luồng ý kiến thứ nhất thì cho rằng chỉ đạo trên sẽ lặp lại chính sách tăng trưởng kinh tế dựa vào mở rộng tín dụng trước đây, với hậu quả là sẽ tạo ra tăng trưởng nóng, gây lạm phát và mất giá bản tệ, thâm hụt thương mại và cuối cùng là suy thoái kinh tế.
Ở chiều ngược lại, có người cho rằng dù có muốn nhưng việc mở rộng tín dụng cũng không dễ bởi vì hạn chế về vốn của nhiều ngân hàng kết hợp với thực tế là cơ cấu/nhu cầu vốn cho vay nghiêng về trung và dài hạn, lãi suất huy động đang chịu áp lực tăng lên, trong khi giới hạn tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn bị siết lại. Tất cả những yếu tố này làm cho các ngân hàng thương mại khó đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng.
Xoay quanh vấn đề thời sự này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với chuyên gia tài chính - TS. Phan Minh Ngọc.
PV: Ông nhận xét thế nào về thông điệp mà Thủ tướng mới truyền đi liên quan đến việc mở rộng tín dụng ngay từ đầu tháng 3?
TS. Phan Minh Ngọc: Trên thị trường đang xuất hiện 2 luồng ý kiến như bạn nói. Nhưng cần lưu ý rằng cả 2 luồng ý kiến trên đều bỏ qua một chi tiết cực kỳ quan trọng trong chỉ đạo của Thủ tướng. Theo đó, Thủ tướng chỉ yêu cầu mở rộng tín dụng và giảm lãi suất "cho các lĩnh vực ưu tiên". 
Cũng cần lưu ý thêm rằng chỉ đạo của Thủ tướng với NHNN về việc mở rộng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên như nêu trên không phải là một chính sách mới. Trước đó, đã nhiều lần trong mấy năm gần đây NHNN gửi công văn cho các tổ chức tín dụng yêu cầu tăng cường cho vay các lĩnh vực ưu tiên, chẳng hạn như Công văn số 5321/NHNN-TTGSNH hồi tháng 7/2018.
Do các lĩnh vực ưu tiên là có giới hạn và tín dụng dành cho những lĩnh vực này chỉ là một phần nhỏ trong tổng lượng tín dụng bơm ra nền kinh tế hàng năm (do những đặc thù của chúng, không hấp dẫn các ngân hàng thương mại cho vay) nên có thể nói ngay rằng mở rộng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên này chắc chắn sẽ không làm tăng vọt tổng tín dụng ra nền kinh tế để mà gây ra những hậu quả như nói trên.
Chưa hết, cho dù tăng trưởng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên có bị đẩy lên quá mạnh thì NHNN vẫn còn một chốt chặn an toàn khác là hạn mức tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thương mại và cho cả nền kinh tế. Như vậy, nếu tăng trưởng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên có tăng mạnh lên thì buộc tín dụng cho các lĩnh vực khác, đặc biệt là những lĩnh vực rủi ro, không được khuyến khích như bất động sản, BOT, chứng khoán v.v... sẽ phải thu hẹp lại.
Từ phân tích ở trên, có thể thấy lo ngại về chuyện mở rộng tín dụng (cho các lĩnh vực ưu tiên) sẽ dẫn đến những bất ổn vĩ mô là không thỏa đáng. Thậm chí là ngược lại, việc mở rộng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên sẽ làm cho tăng trưởng trở nên bền vững hơn, lành mạnh hơn, an sinh xã hội tốt hơn.
Vậy theo ông việc mở rộng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên có khả thi hay không trong bối cảnh có nhiều ràng buộc và khó khăn như vậy?
Câu trả lời nhanh là "khả thi", với điều kiện có sự trợ giúp của NHNN.
Do việc cho vay các lĩnh vực ưu tiên có nhiều rủi ro (chẳng hạn cho vay nông nghiệp sẽ chịu rủi ro mất mùa, dịch bệnh v.v...) nên thường các ngân hàng thương mại chỉ tăng cường cho vay những lĩnh vực này khi mức độ rủi ro được san sẻ, và/hoặc chi phí cho vay được bù đắp, và/hoặc điều kiện cho vay được nới lỏng bởi NHNN, cũng như các hỗ trợ khác.
Theo hướng này, NHNN có thể cần phải nới room tín dụng, hỗ trợ lãi suất, thậm chí cam kết gánh một phần thiệt hại khi doanh nghiệp và người vay trong các lĩnh vực ưu tiên này mất khả năng chi trả v.v... cho những ngân hàng thực hiện tốt chủ trương mở rộng tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên.
Cụ thể NHNN có thể hỗ trợ gánh thiệt hại và những biện pháp hỗ trợ khác như thế nào thưa ông?
Liên quan đến cam kết gánh một phần thiệt hại khi doanh nghiệp và người vay trong các lĩnh vực ưu tiên mất khả năng thanh toán, việc này có thể sẽ cần sự tham gia của các cơ quan chức năng khác bên cạnh NHNN. Chẳng hạn, việc Bộ Nông nghiệp đề xuất hỗ trợ 80% giá thị trường đối với lợn con, lợn thịt bị tiêu hủy do dịch tả lợn châu Phi là một trong những chính sách theo hướng này, gián tiếp giúp làm giảm rủi ro cho vay với các lĩnh vực ưu tiên, giúp các ngân hàng thương mại an tâm hơn khi cho vay các lĩnh vực này.
Những chính sách và biện pháp hỗ trợ khác thì trên thực tế đã ít nhiều được NHNN tiến hành. Và theo thống kê của NHNN, cho vay các lĩnh vực này liên tục được mở rộng. Nên nếu có thêm các giải pháp và sáng kiến khác (và được duy trì thường xuyên) thì chủ trương mở rộng tín dụng, hạ lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên sẽ được thực hiện không quá khó khăn mà vẫn không dẫn đến những rủi ro vĩ mô lớn như khi mở rộng tín dụng đại trà như trước đây. 
Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).