Friday 1 March 2019

Để cơ quan nhà nước bớt bị kiện về thuế (Bài đăng trên TBKTSG, 1/3/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/285692/de-co-quan-nha-nuoc-bot-bi-kien-ve-thue-.html

Những vụ việc khiếu nại, kiện về thuế xảy ra trong thời gian qua là một điều bất lợi không chỉ ở góc độ một nguồn thu ngân sách đáng kể có khả năng bị trì hoãn, mà còn ở góc độ một nguồn lực xã hội đã bị tiêu phí vào quá trình khiếu kiện (cả cho người nộp thuế lẫn cơ quan quản lý và hệ thống tư pháp).

Trong khi đó, tính hiệu quả và minh bạch của hệ thống quản lý nhà nước bị ảnh hưởng từ xu hướng các tranh chấp không xử lý được bởi các cơ quan chức năng đẩy lên cho và chờ quyết định của Thủ tướng.

Ngoài ra, việc Bộ Tài chính đề xuất cơ quan thanh tra, kiểm toán phải chịu trách nhiệm đến cùng, và ra tòa giải trình các kết luận của mình cũng cho thấy cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa tốt, làm tăng không chỉ rủi ro phát sinh các khiếu kiện mà còn rủi ro suy giảm chất lượng quản lý, thanh tra, kiểm toán thuế bởi không bên nào muốn gánh thêm trách nhiệm giải trình nếu đưa ra kết luận bất lợi cho người nộp thuế - là kết quả của quá trình đánh giá, thanh tra, kiểm toán thuế nghiêm túc.
Cũng cần lưu ý thêm rằng người viết đã thử khảo sát chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra và kiểm toán nhà nước của một số quốc gia như Anh, Mỹ, Trung Quốc, Singapore, và Hàn Quốc thì thấy có sự khác biệt với Việt Nam ở chỗ chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan này ở nước ngoài chỉ là thanh tra, kiểm toán các đối tượng là cơ quan nhà nước, cơ quan/chương trình sử dụng công quỹ... hoặc có thêm đối tượng là các doanh nghiệp nhà nước lớn như ở trường hợp Trung Quốc.
Như vậy, có thể nói là ở nước ngoài hầu như không có chuyện các cơ quan này đi thanh tra, kiểm toán các doanh nghiệp/tổ chức phi nhà nước như ở Việt Nam.
Như vậy, vấn đề cơ bản ở đây trước hết là phải làm giảm thiểu rủi ro người nộp thuế khiếu nại, kiện tụng quyết định thuế của cơ quan chức năng. Theo hướng này, Phòng Pháp lý của IMF đã đưa ra một số khuyến nghị cơ sở.
Những biện pháp chung giảm thiểu khiếu kiện
Trước hết cần đảm bảo rằng các luật về thuế được soạn thảo cẩn thận về kỹ thuật, ngôn từ và chính sách để tránh sự hiểu, diễn giải luật khác nhau từ các góc độ khác nhau và (nhờ đó) giảm thiểu tần suất phải ban hành văn bản sửa đổi những luật lệ này. Người nộp thuế cũng cần được hướng dẫn về chính sách thuế một cách công khai, rộng rãi để việc khai báo thuế được suôn sẻ, đúng quy định.
Khi việc khiếu nại quyết định thuế phát sinh, nhiều nước, theo luật, sẽ cho người nộp thuế được hoãn nộp trong khi khiếu nại thuế đang được các cơ quan chức năng thụ lý. Việc này có rủi ro là người nộp thuế tiến hành khiếu nại để được trì hoãn nộp thuế. Bởi vậy, cần xác định rõ phạm vi được hoãn nộp thuế. Ngược lại, với những người nộp thuế có khó khăn về dòng tiền, cho phép họ được trả thuế một cách linh động sẽ làm giảm bớt nhu cầu “câu giờ” bằng cách khiếu nại thuế.
Một việc quan trọng khác là cơ quan thuế, thanh tra và kiểm toán phải tiếp cận người nộp thuế trên tinh thần hợp tác, đồng thời khuyến khích cán bộ kiểm toán, thanh tra giải quyết các bất đồng ngay trong quá trình kiểm toán, chứ không nên lấy tư cách bề trên, áp đặt.
Cũng cần tránh xu hướng quá mạnh tay trong việc tính thuế (vì, ví dụ, động cơ thành tích), và để khắc phục rủi ro này thì cần có thêm bộ phận chức năng độc lập làm nhiệm vụ hòa giải các bất đồng, hoặc nếu không thì cũng phải đảm bảo cho người nộp thuế có cơ hội thảo luận khúc mắc với bộ phận đưa ra quyết định, trước khi quyết định thuế chính thức được đưa ra.
Nếu có nhiều bất đồng, khiếu kiện nổ ra, điều này cho thấy có khả năng hệ thống thuế đang không hành xử đúng đắn, và cần được chủ động khắc phục để tránh những nguy cơ tương tự trong tương lai. Ngược lại, việc để cho người nộp thuế hiểu rõ họ phải gánh gánh nặng chứng minh quyết định thuế của cơ quan chức năng là không chính xác sẽ góp phần hạn chế khiếu nại thuế.
Tương tự, cần quy định áp dụng hình phạt tăng cường với những khiếu nại thiếu căn cứ, đồng thời giảm phạt thuế nếu người nộp thuế rút lại khiếu nại. Ngoài ra, cần quy định cơ quan chức năng phải đền bù chi phí khiếu nại cho người nộp thuế nếu khiếu nại thành công, và, ngược lại, người nộp thuế sẽ phải trả chi phí phát sinh trong quá trình khiếu nại, kiện tụng khi họ bị xử thua. Thêm nữa, cần quy định người nộp thuế phải tiến hành đầy đủ tất cả các biện pháp hành chính trước khi kiện ra tòa.
Kinh nghiệm ở Đức và Mỹ
Ở Đức, quy trình từ lúc có khiếu nại đến kiện ra tòa trải qua những bước sau: đầu tiên, người nộp thuế phải làm việc với bộ phận chức năng có quyết định thuế bị khiếu nại để giải quyết. Nếu không xong thì chuyển sang bộ phận giải quyết khiếu nại của cơ quan thuế (độc lập, cùng cấp với bộ phận ra quyết định thuế, với chức năng duy nhất là xem xét các khiếu nại).
Nếu vẫn không xong, hoặc cơ quan thuế không trả lời chính thức về khiếu nại trong vòng một tháng, người nộp thuế lúc đó mới được kiện ra tòa. Nhưng nếu cơ quan chức năng đồng ý thì người nộp thuế có thể trực tiếp mang vụ việc đó ra tòa (mà không phải trải qua các bước quy định).
Trong thời gian khiếu nại kết quả lên bộ phận ra quyết định thuế, người nộp thuế thường không phải nộp đầy đủ thuế đã được ấn định. Nhưng sau khi bộ phận giải quyết khiếu nại ra quyết định (chấp nhận cùng nhau ra tòa) thì người nộp thuế phải hoàn thành nghĩa vụ thuế.
Trong thời gian kiện ra tòa, cán bộ giải quyết khiếu nại của cơ quan thuế tiếp tục làm việc với người nộp thuế, và trong không ít trường hợp đã đạt được thỏa thuận theo đó người nộp thuế rút lại đơn kiện. Trong những trường hợp còn lại, thẩm phán triệu tập một cuộc họp không chính thức, có tính chất hòa giải, và thẩm phán đóng vai trò là người hòa giải, còn cán bộ giải quyết khiếu nại tiếp tục đại diện cho cơ quan thuế. Nếu vẫn không đi đến được thỏa thuận nào, lúc đó tòa sẽ chính thức phân xử và đưa ra phán quyết (có thể phúc thẩm).
Còn ở Mỹ, khi người nộp thuế không đồng ý với quyết định của cơ quan thuế từ quá trình tính thuế hoặc kiểm toán thuế, người nộp thuế được quyền yêu cầu trao đổi với cấp trên của cán bộ ra quyết định về thuế. Nếu vẫn không đồng ý, người nộp thuế có thể khiếu nại đến phòng khiếu nại của cơ quan thuế, là phòng sẽ xem xét vụ việc một cách công bằng, khách quan (vì luôn ý thức rằng không làm được như thế sẽ bị kiện).
Tại nơi này, phần lớn vụ việc được giải quyết. Để đảm bảo chức năng độc lập của phòng khiếu nại, việc liên lạc kín giữa cán bộ phòng khiếu nại với cán bộ tính thuế bị cấm.
Nếu người nộp thuế không khiếu nại lên phòng khiếu nại, trong vòng 90 ngày kể từ khi nhận được thông báo của cơ quan thuế, người nộp thuế có thể kiện ra tòa án thuế (có ba loại tòa, tùy tính chất vụ việc). Nếu trong thời gian này người nộp thuế không kiện ra tòa thì cơ quan thuế sẽ gửi hóa đơn thuế đến và lúc đó người nộp thuế không còn cơ hội kiện ra tòa nữa.
Tùy theo loại tòa án và vụ việc, tiền thuế có thể được hoãn trả cho đến khi có phán quyết. Nếu thua kiện, người nộp thuế có thể bị phạt tới 25.000 đô la Mỹ nếu tòa cho rằng vụ kiện là để trì hoãn nộp thuế, hoặc không có căn cứ khởi kiện.
Ngoài hệ thống tòa án, người nộp thuế còn có thể dùng đến dịch vụ hòa giải của cơ quan trọng tài, hòa giải.
Một số hàm ý quan trọng
Có một số hàm ý quan trọng có thể rút ra từ khảo sát trên. Thứ nhất, việc “kêu cứu”, khiếu nại lên Thủ tướng là cực kỳ sai trái. Luật Quản lý thuế cần được thiết kế để thủ tục giải quyết khiếu nại chỉ giới hạn ở phạm vi cơ quan thuế, tòa án, và các cơ quan trọng tài, hòa giải.
Thứ hai, không rõ các vụ việc khiếu kiện hiện nay ở Việt Nam đã được tiến hành qua các biện pháp giảm thiểu khiếu kiện nêu ở trên hay không, nhưng dường như nếu có thì cơ quan thuế, thanh tra và kiểm toán cũng chưa thực hiện tốt.
Thứ ba, ở các nước, mọi tranh chấp, bất đồng về thuế xem ra chỉ diễn ra giữa cơ quan thuế và người nộp thuế mà không liên quan, lôi kéo bất cứ một cơ quan chức năng nào khác. Bộ phận giải quyết khiếu nại độc lập của cơ quan thuế sẽ thường là đại diện cho cơ quan thuế để giải quyết với người nộp thuế (như là bước cuối cùng ở cấp cơ quan thuế), hoặc thông qua bên thứ ba, cho dù kết luận và quyết định về thuế không phải là do bộ phận này đưa ra. Như vậy, việc Bộ Tài chính đề xuất để Kiểm toán Nhà nước trực tiếp giải trình, ví dụ, với tòa án là không thỏa đáng, mà đây chính là trách nhiệm của cơ quan thuế.
Thứ tư, nếu cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước có chức năng thanh tra, kiểm toán các tổ chức phi nhà nước thì chức năng này nên chuyển về cho cơ quan thuế (và đảm bảo tính độc lập với các bộ phận khác của cơ quan thuế). 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).