Monday 22 April 2019

Basel II: Hoãn rồi sẽ hoãn mãi! (Bài đăng trên CafeF, 22/4/2019)

http://cafef.vn/basel-ii-hoan-roi-se-hoan-mai-20190422212756025.chn


Nhằm nâng cao tín an toàn và sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam, từ năm 2013, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai lộ trình thực hiện chuẩn mực an toàn vốn theo Basel II. Theo đó, NHNN đặt ra mục tiêu có 10 ngân hàng thương mại (NHTM) cụ thể được chọn thí điểm để triển khai áp dụng thành công các chuẩn mực Basel II vào đầu năm 2020. Tiếp đó, vào đầu năm nay, NHNN cho biết đang tiếp tục thẩm định và xác nhận thêm 7 thành viên mới triển khai thành công Basel II ngay trong năm 2019, trước thời hạn quy định 2020 (1).

Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại, mới chỉ có tổng cộng 6 ngân hàng là Vietcombank, VIB, OCB, MB, VPBank, và TPBank được NHNN công nhận, cho phép áp dụng trước thời hạn các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN (được xây dựng dựa theo Basel II). Đáng lưu ý là OCB, VPBank và TPBank không phải là ngân hàng nằm trong số 10 ngân hàng ban đầu mà NHNN chọn thí điểm thực thi Basel II. Như vậy, còn ít nhất là 7 ngân hàng được chọn thí điểm nhưng vẫn chưa đạt chuẩn Basel II, trong khi từ nay đến thời hạn đầu năm 2020 thời gian không còn nhiều.

Trước khả năng “vỡ kế hoạch” cán đích thực hiện chuẩn mực Basel II, NHNN có xu hướng mở rộng thêm đối tượng chưa phải áp dụng Thông tư 41 là một số ngân hàng chưa đáp ứng quy định CAR, ngoài các ngân hàng được đặt vào diện kiểm soát đặc biệt. 

Việc “đặc cách” lùi thời hạn áp dụng Basel II được coi là phù hợp và tất yếu trước đòi hỏi thực tế, chủ yếu trên cái nghĩa là không lùi thì nếu “xử” mạnh tay sẽ gây tình trạng ngưng trệ hoạt động, gây bất lợi cho hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

Cách tư duy trên đã xem nhẹ rủi ro “nhờn” chính sách của các ngân hàng. Rõ ràng là người ta hy vọng rằng nếu được cho thêm thời gian thì các ngân hàng hiện chưa đạt chuẩn mực Basel II sẽ (phải) đạt trong một thời hạn trong tương lai. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu các ngân hàng “dưới chuẩn” này tin rằng NHNN sẽ không dám làm mạnh tay với họ khi họ tiếp tục “nhỡ” đích một lần nữa trong tương lai, đặc biệt với những ngân hàng “quá to để cho phá sản”, chủ yếu là những NHTM có vốn nhà nước?   

Cần lưu ý rằng các NHTM được chọn thí điểm áp dụng Basel II thường là những NHTM mà NHNN cho rằng có nhiều cơ hội thực hiện thành công hơn các NHTM khác. Họ cũng đã có cả một lộ trình dài nhiều năm để chuẩn bị. Vậy mà vẫn thất bại.

Trong khi đó, một số các NHTM khác có hoặc không có trong danh sách 10 ngân hàng thí điểm vẫn thành công trước hạn. Điều này cho thấy vấn đề nằm phần lớn ở sự quyết tâm, tự nguyện, tự giác, coi việc đạt chuẩn Basel II là vấn đề không phải chỉ là để lấy “số má” với thiên hạ, mà là vấn đề sát sườn, sống còn với hoạt động kinh doanh của những ngân hàng đã thành công với Basel II. Chắc chắn họ không có cái rủi ro đạo đức là không làm được thì NHNN cũng không dám làm gì mình.

Do đó, với những ngân hàng (có khả năng) không đạt mốc đầu năm 2020 và những cái mốc sau đó, cần được mạnh tay xử lý như hạn chế tăng trưởng tín dụng tối đa, kỷ luật ban lãnh đạo ngân hàng, đặt dưới diện kiểm soát đặc biệt với lộ trình nghiêm ngặt và nghiêm khắc thực hiện cho bằng được chuẩn mực Basel II. Làm được như vậy sẽ vừa không những bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và sự an toàn, phát triển của hệ thống, mà còn bảo đảm được sự công bằng với những NHTM đã cố gắng và thành công trước/đúng hạn.

Động thái xử lý quyết liệt, nghiêm khắc như đề xuất bên trên của NHNN sẽ còn có tác dụng rất quan trọng là thu hẹp khoảng cách quá lớn trong chuẩn mực hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam với khu vực và thế giới, xóa đi hình ảnh lạc lõng, tụt hậu của ngân hàng Việt Nam trong con mắt bên ngoài. Bởi, trong khi Việt Nam vẫn còn đang loay hoay với Basel II thì các nước khu vực và thế giới đã tích cực thực thi tiêu chuẩn Basel III kể từ những năm đầu thập kỷ này và được dự kiến hoàn thành vào đầu năm 2022. Chuẩn mực Basell III cao hơn nhiều so với Bassel II, thể hiện ở tiêu chí vốn cấp 1 khắt khe hơn, phải có các biện pháp đối phó với các biến động chu kỳ (ví dụ, phải để nhiều vốn dự trữ hơn khi ngân hàng mở rộng tín dụng), và tuân thủ các hạn mức về tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản.

Cho đến tháng 3/2018, đã có 27 nước thành viên của Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel (BCBS) đã thực thi quy định về vốn an toàn tối thiểu theo mức độ rủi ro của tài sản, về tỷ lệ đòn bẩy và thanh khoản, và tỷ lệ vốn dự trữ chống đỡ các cú sốc chu kỳ theo chuẩn mực Basel III (2). Lưu ý thêm là trong số 27 nước này có cả những thành viên đang phát triển của ASEAN như Indonesia và các nước đang phát triển trong khu vực như Ấn Độ và Trung Quốc, bên cạnh các nước đã phát triển như Hong Kong, Singapore, Nhật và Hàn Quốc.

Ngoài ra, còn có đến hơn 100 nước phi thành viên của BCBS đã có chiến lược thực thi Basel III trên 5 chỉ tiêu cơ bản của nó, gồm cơ chế vốn tối thiểu theo rủi ro, tỷ lệ đòn bẩy, những khoản cho vay lớn, tỷ lệ thanh khoản, và tỷ lệ cấp vốn ổn định ròng (NSRF) (3).

Tóm lại, trước thực trạng khá thất vọng về việc thực thi Basel II ở Việt Nam, NHNN nên lấy đây làm lý do và động lực để thực hiện một cuộc cải cách toàn diện và cơ bản trong hệ thống ngân hàng nhằm phát triển và tiệm cận với chuẩn mực của khu vực và thế giới.

(1) http://ndh.vn/tham-dinh-them-7-ngan-hang-chuan-bi-ap-dung-basel-ii-20190110084253720p149c165.news

(2) https://www.bis.org/bcbs/publ/d440.pdf

(3) https://www.bis.org/fsi/publ/insights11.pdf

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).