Saturday 13 April 2019

Công ty chứng khoán phải chịu trách nhiệm dân sự, hình sự với báo cáo của mình? (Bài đăng trên TBKTSG, 13/4/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/287349/cong-ty-chung-khoan-phai-chiu-trach-nhiem-dan-su-hinh-su-voi-bao-cao-cua-minh-.html

Vấn đề trên được ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), nêu ra trong buổi tọa đàm công bố thông tin của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán ngày 4-4-2019.

Về cơ sở của đề xuất này, chỉ thấy ông Dũng nói một cách khá chung chung, qua tường thuật của báo chí. Cụ thể, “ông Dũng cho rằng chất lượng báo cáo của các công ty chứng khoán mang tính chất khuyến nghị nhưng lại ảnh hưởng lớn nên chắc chắn phải có câu chuyện khi công ty chứng khoán ra báo cáo phải có trách nhiệm cả hình sự hay dân sự. UBCKNN có biện pháp là nếu có đánh giá mang tính chất nhạy cảm phải có cơ sở. Với nhà đầu tư thì ông Dũng cho rằng cần chọn lọc công ty chứng khoán để tin”(1).
Nếu dựa trên cơ sở của ông Dũng nêu ra để từ đó bắt công ty chứng khoán phải chịu trách nhiệm dân sự hoặc hình sự đối với chất lượng báo cáo của mình thì chẳng khác gì dùng ý chí của nhà quản lý để áp đặt lên một hoạt động rất bình thường của thị trường. Đáng ngại hơn, sự áp đặt mang tính chủ quan đó còn có thể bóp nghẹt thị trường theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, vì nó chẳng khác gì buộc công ty chứng khoán chỉ được viết/báo cáo về những gì (theo hướng) nhà quản lý muốn nghe hoặc cho là “có cơ sở”.
Sự áp đặt nói trên sẽ là thỏa đáng, chấp nhận được nếu cái “có cơ sở” mà UBCKNN nêu ra theo chủ quan, là đúng đắn, xác đáng.
Nhưng đến đây thì lại nảy sinh ra bốn vấn đề. Thứ nhất, cũng tại buổi tọa đàm, ông Trần Văn Dũng nói rằng: “UBCKNN là cơ quan quản lý sẽ giám sát nhưng đến đâu thì lại là một câu chuyện. Bởi vì UBCKNN nghĩ được một thì bên ngoài nghĩ được nhiều hơn. Những người xuất sắc nhất hiện nay có vẻ tập trung vào những công ty lớn chứ không nằm ở cơ quan quản lý”.
Điều đó phần nào cho thấy bản thân ông Dũng cũng biết rằng UBCKNN (hay bất cứ một cơ quan quản lý nào khác) khó có thể giỏi hơn, đúng hơn các “công ty lớn”. Nói cách khác, nếu “công ty lớn” đưa ra nhận định thị trường theo chủ quan, căn cứ vào “cơ sở” của họ, thì cơ quan chức năng muốn chứng minh nhận định của “công ty lớn” (trong trường hợp này là công ty chứng khoán) là sai trái, “không có cơ sở” để buộc họ chịu trách nhiệm dân sự hay hình sự, cũng không dễ.
Thứ hai, và liên quan đến vấn đề thứ nhất nói trên, ai đủ thẩm quyền, và quan trọng hơn là đủ sáng suốt để kết luận rằng “cơ sở” của ai đó đưa ra là đúng hay không? Trước đây, khi chứng khoán Việt Nam đang trên đà điều chỉnh mạnh, một vị lãnh đạo từng đưa khuyến nghị mạnh mẽ, đại loại nhà đầu nên tư tiếp tục mua vào chứng khoán vì giá đang rẻ và vị này cũng sẽ mua nếu có tiền.
Nhưng thực tế sau đó thì thị trường tiếp tục lao dốc không phanh. Điều này cho thấy không chỉ UBCKNN, mà bất cứ cơ quan chức năng, quan chức quản lý liên đới hay thậm chí là các công ty chứng khoán lớn cũng không thể “đọc vị” được thị trường rành rành như xem lòng bàn tay của mình.
Vấn đề thứ ba nảy sinh, cứ cho là cơ quan quản lý có cơ sở để nhận định (các điều kiện) thị trường một cách chính xác, hợp lý (dù điều này, như đã nói ở trên là khó xảy ra) thì cũng chẳng cần trao cho các công ty chứng khoán chức năng nhận định, báo cáo thị trường nữa, để giúp họ thoát khỏi nguy cơ chịu trách nhiệm dân sự, hình sự nếu đưa ra nhận định không chính xác.
Trong thực tế, thông qua công tác lập quy hoạch, cơ quan nhà nước cũng thường đưa ra các nhận định, dự báo và lấy đó làm cơ sở để định hướng phát triển cho tương lai. Nhưng có mấy khi dự báo đúng? Có thể nói, đã là dự báo thì không ai dám tự tin là có đủ cơ sở để khẳng định chắc chắn đúng, vì nếu thế thì không còn gọi là dự báo nữa rồi.
Vì vậy, nếu cơ quan quản lý còn thấy không thể chắc chắn thì phải chấp nhận ý kiến, nhận định trái chiều, đa chiều của công ty chứng khoán, không đúng như ý muốn và nhận định chủ quan của mình. Và nếu đã phải chấp nhận như vậy thì cũng có nghĩa là cơ quan quản lý không thể buộc tội rằng những nhận định của công ty chứng khoán là “không có căn cứ”, vì đơn giản là chỉ cần công ty chứng khoán viết rằng “chúng tôi tin rằng...” thì niềm tin đó cũng có thể được coi là “căn cứ”, là “cơ sở” cho nhận định của họ rồi.
Một vấn đề nữa, đó là không phải cứ tổ chức nào càng lớn, càng có nhiều người xuất sắc thì nhận định càng đúng, và “cơ sở” của họ cũng càng đúng. Xin kể một ví dụ thực tế tại ngân hàng người viết từng làm việc tại Singapore. Trong một buổi họp phòng, một đồng nghiệp phụ trách về năng lượng đặt câu hỏi có ai biết loại công ty chứng khoán nào đưa ra dự đoán chính xác nhất về giá dầu trong các năm 2014-2016 không. Câu trả lời trái ngược với nhận thức chung của những người khác trong phòng, vì thực tế chỉ có một số công ty chứng khoán nhỏ, không mấy tên tuổi là đoán đúng nhất!
Tất nhiên, nhà đầu tư sẽ “chọn lọc công ty chứng khoán để tin”, như lời khuyên của ông Trần Văn Dũng và cũng chỉ nhà đầu tư mới là người phải đưa ra quyết định cuối cùng là nên tin theo ai. Nhưng như đã nói, bất kể công ty nào cứ tưởng là “đáng tin” cũng vẫn có thể không còn đáng tin nữa, và ngược lại.
Nói những điều trên để cho thấy rằng với tư cách là một cấu thành tham gia thị trường thì chẳng có ai có thể khẳng định mình (luôn) đúng, chẳng có cái cơ sở nào (luôn) là chuẩn mực, là tham chiếu để cho rằng các “cơ sở” khác trong nhận định thị trường là sai.
Tóm lại, các công ty chứng khoán (cần) luôn luôn được đảm bảo quyền miễn tố với các khuyến nghị, nhận định (dù sau này tỏ ra là sai) của họ, miễn là họ có tuyên bố miễn trừ trách nhiệm. Nhà đầu tư hay thậm chí là quốc gia có bị thiệt hại thì chỉ nên tự trách mình là đã tin vào nhận định đó, trừ khi có đủ căn cứ buộc tội công ty chứng khoán cố tình lừa nhà đầu tư/Nhà nước tin vào nhận định đó gây thiệt hại cho mình.
Lúc đó, dù không muốn thì công ty chứng khoán cũng có thể bị kiện, nhưng có phải chịu trách nhiệm dân sự, hình sự hay không thì phải tùy vào phán quyết của tòa, dựa trên bằng chứng khách quan, chứ không phải từ phán xét chủ quan của cơ quan quản lý! 
(1) http://vneconomy.vn/phai-quy-trach-nhiem-hinh-su-voi-bao-cao-cong-ty-chung-khoan-20190404185752534.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).