Thursday 25 April 2019

Thấy gì từ quy định 'siết' ví điện tử? (Bài đăng trên NDH, 25/4/2019)

http://ndh.vn/thay-gi-tu-quy-dinh-siet-vi-dien-tu--20190424015132816p4c149.news


Từ nhiều năm nay Chính phủ đã có chủ trương nhất quán là thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Chủ trương đúng đắn này nhằm mục đích tạo thuận lợi cho các chủ thể trong nền kinh tế khi các giao dịch thanh toán được thực hiện mà không dùng tiền mặt, trong khi vẫn phải đảm bảo an ninh, an toàn và phòng chống rửa tiền.

Chủ trương trên đã dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình thanh toán không dùng tiền mặt, mà gần đây hơn là thanh toán qua tài khoản viễn thông và qua ví điện tử. Một trong những khác biệt chủ yếu của hai loại hình thành toán này là ở việc cần hoặc không cần có liên kết với ngân hàng.

Cụ thể, với thanh toán qua tài khoản viễn thông, việc nạp tiền dường như là không cần phải có tài khoản ngân hàng, thông qua các dịch vụ của hệ thống ngân hàng, và/hoặc có Internet. Khi nói về hình thức thanh toán này, một số quan chức liên đới và đại diện một số hãng viễn thông cho rằng hình thức thanh toán này sẽ phát triển và rất có ý nghĩa ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi hệ thống ngân hàng khó vươn tới và bao phủ, nơi người dân ít tiếp cận được với các dịch vụ ngân hàng hoặc tỷ lệ người có tài khoản ngân hàng thấp, và/hoặc không có Internet.

Trong khi đó, với kênh thanh toán qua ví điện tử, việc nạp tiền vào ví điện tử chỉ được thực hiện theo 2 cách: thông qua tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách. Quy định này mới được Ngân hàng Nhà nước (NHNN ) đề xuất trong  dự thảo Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (sau đây gọi tắt là Thông tư).

Quy định trong dự thảo Thông tư trên của NHNN là phù hợp với thông lệ quốc tế, tại những nước đã phát triển và kể cả đang phát triển, nơi có sự phổ biến rộng rãi các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Ví dụ, tại Singapore hay Ấn Độ, mọi hình thức thanh toán điện tử đều phải nối kết với ngân hàng. Ngược lại, tại những nước này, hoặc là không có/không được phép sử dụng thanh toán qua tài khoản viễn thông, hoặc là phải nối kết với ngân hàng nếu muốn dùng các dịch vụ thanh toán trên điện thoại (xem thêm về vấn đề này  tại https://www.thesaigontimes.vn/285172/them-mot-con-en-thi-van-chua-co-mua-xuan.html).

Xét về độ tiện lợi, rõ ràng hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông là tiện lợi hơn hầu hết các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác do có sự linh hoạt trong việc nạp tiền vào tài khoản viễn thông dùng để thanh toán – hoặc bằng tiền mặt (thẻ cào), hoặc bằng chuyển khoản, thẻ ngân hàng v.v... Trong khi đó, như đã thấy trong dự thảo Thông tư, việc nạp tiền vào ví điện tử chỉ được thực hiện qua ngân hàng, dùng sản phẩm của ngân hàng (tài khoản, thẻ ghi nợ), mà thiếu đi kênh tiền mặt (thẻ cào).

Nhưng xét đến mục tiêu đầy đủ của thanh toán không dùng tiền mặt, không chỉ phải đảm bảo sự tiện lợi, mà còn phải đảm bảo những yêu cầu về an ninh, an toàn, và phòng chống rửa tiền thì rõ ràng hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông vừa không thực sự là một kênh thanh toán không dùng tiền mặt, vừa không đảm bảo được các yêu cầu này.

Cụ thể hơn, việc cho phép nạp tiền mặt (bằng thẻ cào) vào tài khoản viễn thông, dù ở những nơi không có dịch vụ ngân hàng và/hoặc không có Internet, trước hết là đã vi phạm nguyên tắc thanh toán không dùng tiền mặt. Người sử dụng vẫn phải dùng tiền mặt để mua thẻ cào rồi nạp tiền vào tài khoản viễn thông, hoặc nạp tiền tại các chi nhánh, đại lý của công ty viễn thông. Sự tiện lợi kỳ vọng ở việc thanh toán không dùng tiền mặt như vậy đã giảm đi nhiều.

Quan trọng hơn, với việc chấp thuận nạp tiền vào tài khoản bằng tiền mặt thì dù công ty viễn thông có muốn/bị yêu cầu kiểm soát tài khoản của người sử dụng (như cách ngân hàng kiểm soát tài khoản của chủ tài khoản) họ cũng không thể có đầy đủ và rõ ràng các thông tin cần thiết để thực hiện các yêu cầu về phòng chống rửa tiền (ví dụ, nguồn tiền từ đâu, ai chuyển, bao nhiêu, khi nào v.v...).

Còn với kênh thanh toán qua ví điện tử, việc phải có liên kết, gắn liền với ngân hàng và dịch vụ ngân hàng như dự thảo Thông tư tuy sẽ hạn chế phần nào phạm vi phủ sóng của nó trong dân chúng, nhưng đây vẫn là một giải pháp thanh toán phi tiền mặt dung hòa tốt hơn giữa mức độ tiện lợi và phòng chống rửa tiền, vốn không thể xem nhẹ hoặc bỏ qua.

Sẽ có nhiều người lập luận, bênh vực cho hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông rằng kênh này chỉ dùng để thanh toán những khoản nhỏ như mua vé máy bay, đi chợ, đi du lịch v.v... nên dù có vi phạm nguyên tắc phòng chống rửa tiền thì hậu quả cũng không nghiêm trọng!

Nhưng việc không quy định một mức trần giá trị giao dịch theo ngày và theo tháng tương tự như với quy định trong dự thảo Thông tư về ví điện tử (không quá 20 triệu đồng/ngày, 100 triệu/tháng), thì dù chỉ là những giao dịch “nhỏ” gồm mua vé máy bay, mua tour du lịch, đi chợ v.v... tổng giá trị giao dịch thanh toán qua tài khoản viễn thông nếu được dùng thường xuyên, đặc biệt với mục đích rửa tiền, sẽ không còn là “nhỏ” chút nào nữa, dễ dàng lên đến tiền tỷ.  

Tóm lại, qua phân tích bên trên, có thể thấy rằng quy định như trong dự thảo Thông tư về hình thức nạp tiền vào ví điện tử là hợp lý và xác đáng, xét từ góc độ an ninh, phòng chống rửa tiền. Kể cả việc áp đặt hạn mức chi tiêu theo ngay, theo tháng trong dự thảo cũng là hợp lý bởi hiện tại việc thanh toán qua ví điện tử vẫn còn nhiều rủi ro, dễ gây thiệt hại cho chủ ví (ví dụ, khi đánh mất điện thoại hoặc bị hack tài khoản), do đó, cần phải có quy định hạn mức để giảm thiểu thiệt hại từ những rủi ro này. Tương tự như vậy là các quy định khác trong dự thảo Thông tư, gồm việc NHNN sẽ giám sát tổng số ví điện tử, tổng số dư của tất cả khách hàng, và tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải nắm được thông tin và xác minh thân nhân người sử dụng.

Tương ứng với nhận định trên, có thể thấy rằng hình thức thanh toán qua tài khoản viễn thông chưa đảm bảo được các yêu cầu của thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó, nếu muốn cấp phép phổ biến hình thức này thì trước mắt cần đặt ra một số quy định tối thiểu, gồm (i) không được phép nạp tiền mặt vào tài khoản viễn thông dùng để thanh toán; (ii) đặt hạn mức giao dịch theo ngày và theo tháng (tham khảo quy định của NHNN); (iii) công ty viễn thông phải nắm được thông tin và xác minh thân nhân người sử dụng, phục vụ cho công tác thanh tra, giám sát ngành khi cần; và (iv) công ty viễn thông phải báo cáo định kỳ và bất thường cho NHNN số lượng, số dư tài khoản viễn thông dùng để thanh toán.

Trên hết, cần lưu ý một điều rằng việc thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam cần phải được cấp phép và chịu sự theo dõi, giám sát, chế tài của cơ quan chức năng về tiền tệ, trong trường hợp này chính là NHNN. Để cho không phải là một sự “lách luật”, mọi “sáng kiến” thanh toán cần phải bị loại bỏ chừng nào vẫn có khía cạnh nào đó vi phạm nguyên tắc này.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).