Thursday 9 May 2019

Thêm góc nhìn về động thái hút tiền qua tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước (Bài đăng trên CafeF, 9/5/2019, tiêu đề do báo đặt lại)

http://cafef.vn/ts-phan-minh-ngoc-hut-tien-bang-tin-phieu-cua-ngan-hang-nha-nuoc-la-hop-ly-20190509150041736.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từ đầu năm đến nay theo báo cáo đã mua vào trên 8 tỷ USD, đồng nghĩa là một lượng tiền đồng rất lớn đã được bơm ra nền kinh tế. Để tránh áp lực lên lạm phát, NHNN đã trung hòa lượng một phần lượng tiền đồng bơm ra này bằng phát hành tín phiếu của mình để các ngân hàng thương mại (NHTM) mua và nắm giữ. 

Do phát hành tín phiếu phải trả lãi nên có luồng quan điểm rằng đây là phí tổn mà NHNN, tức quốc gia, phải gánh chịu mà vẫn có thể tránh được bằng những công cụ tiền tệ khác không hoặc ít tốn kém hơn. 

Quan điểm trên là bất hợp lý ở một số khía cạnh. Trước tiên, hút tiền về bằng trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN là một trong một số ít công cụ cơ bản của chính sách tiền tệ của bất cứ ngân hàng trung ương (NHTW) nào. Lo ngại về chi phí, phí tổn là vô nghĩa với NHTW (tức NHNN ở Việt Nam) bởi NHTW là nơi duy nhất có quyền và chức năng tạo tiền, đưa vào nền kinh tế. Phí tổn, nếu có, chỉ là chi phí in ấn, phát hành tiền mặt, chứ không phải là tiền lãi phải trả cho NHTM, bởi cần bao nhiêu để trung hòa thì in/tạo ra bấy nhiêu, với chi phí hầu như bằng 0. Trên hết, tiền lãi NHNN phải trả cho NHTM từ việc nắm giữ tín phiếu không phải, không liên quan gì đến ngân sách quốc gia nên không phải là một tổn thất cho ngân sách.

Mặt khác, NHNN phát hành tín phiếu để đổi lấy lượng VND phát sinh từ việc NHNN mua ngoại tệ từ các NHTM. Rõ ràng ở đây hoàn toàn không có sự thua thiệt, tốn kém nào cả mà chỉ là sự “đổi chác” đơn thuần về bản chat.

Cụ thể, về vế thứ nhất, mua vào ngoại tệ-bơm ra, giả sử, 10 đơn vị VND, cái NHNN “mất” là 10 đơn vị VND, nhưng bù lại, cái NHNN “được” là lượng ngoại tệ thu về tương ứng 10 đơn vị VND. Tức là NHNN không thiệt hại gì ở đây cả, thậm chí phải nói là có lợi vì thu được một lượng ngoại tệ mới mà chỉ phải in/tạo mới 10 đơn vị VND, trong trường hợp NHNN không có, không dùng VND có sẵn trong kho quỹ của mình. Lưu ý thêm là ở đây ta không bàn đến tác động của việc mua vào ngoại tệ của NHNN lên các biến số vĩ mô.

Ở vế thứ hai, phát hành tín phiếu cho NHTM-thu về VND do NHTM nắm giữ, để đơn giản, giả sử NHNN muốn trung hòa toàn bộ 10 đơn vị VND bơm ra để mua ngoại tệ bằng phát hành tín phiếu NHNN cho NHTM nắm giữ. Khi đó, cái mà NHNN phải bỏ ra là 10 đơn vị tín phiếu, còn cái mà NHNN thu lại được là 10 đơn vị VND. Như vậy, ở đây NHNN cũng không có thiệt hại gì, mà chỉ là một sự đổi ngang tài sản, mà đều là tài sản do NHNN tạo ra. 

Nếu coi việc NHNN phải trả lãi cho tín phiếu mà NHTM giữ cho đến khi đáo hạn là một phí tổn (lưu ý lại là phí tổn cho riêng NHNN) thì phí tổn này hoàn toàn được bù đắp bởi: (i) số ngoại tệ mua vào mới với chi phí tính bằng VND gần như bằng 0, do khả năng tạo tiền của NHNN. Hơn nữa, số ngoại tệ này về giá trị tính bằng VND lớn hơn nhiều lần số tiền lãi NHNN phải trả cho lượng tín phiếu mà NHTM nắm giữ; (ii) tiền lãi thu được từ việc đầu tư trong và ngoài nước số ngoại tệ mua vào mới này. Lưu ý là số ngoại tệ này trên danh nghĩa là bổ sung vào dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng bản thân dự trữ ngoại hối  không bao giờ được để nằm yên một chỗ mà phần lớn được đem đầu tư ở đâu đó dưới nhiều kỳ hạn để sinh lãi; và (iii) tiền lãi thu được từ việc cho vay lại NHTM sau này từ số VND mà NHNN thu về bằng tín phiếu trước đó. 

Về việc sử dụng các công cụ điều tiết khác, NHNN cũng đã có giải thích rằng những năm vừa qua họ có sử dụng kênh tiền gửi Kho bạc được điều chuyển về NHNN để điều tiết nhưng kênh này không thể hút triệt để lượng tiền NHNN đưa ra để thu hút ngoại tệ. Thực ra, kênh điều tiết này tuy có phát huy tác dụng nhưng, trên lý thuyết, không phải là một công cụ tiêu chuẩn của chính sách tiền tệ của NHTW, mà chỉ là một giải pháp “đặc thù”, nhất thời ở Việt Nam. 

Còn với công cụ dự trữ bắt buộc, NHNN giải thích lý do không được sử dụng là do phải đảm bảo thanh khoản cũng như không phù hợp trong điều kiện cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Những lý do này là đúng nhưng xin được bổ sung thêm rằng sẽ là bất hợp lý, không thỏa đáng và công bằng đối với NHTM khi NHNN một tay tung ra tiền đồng để mua ngoại tệ từ NHTM, tay kia lại dùng dự trữ bắt buộc để buộc/ép NHTM nộp (một phần) số tiền đồng này về kho quỹ NHNN, với lãi suất của dự trữ bắt buộc thấp hơn nhiều lãi suất tín phiếu, gây thiệt hại cho NHTM. 

Ngoài ra, dù là chỉ phải trả lãi suất thấp hơn nhiều cho dự trữ bắt buộc nhưng về bản chất thì NHNN vẫn phải tốn phí tiền lãi tương tự như việc họ phải trả lãi cho tín phiếu của mình. Như vậy có nghĩa là dự trữ bắt buộc cũng không phải là kênh hút tiền về “miễn phí”, càng làm nổi bật tầm quan trọng và thích đáng của kênh phát hành tín phiếu NHNN để trung hòa tiền đồng sau khi mua ngoại tệ. 

Tóm lại, trung hòa bản tệ phát sinh từ việc mua ngoại tệ bằng tín phiếu là một công cụ chính sách tiền tệ chuẩn mực và có thể nói là hợp lý nhất đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc trung hòa này cũng không gây ra tổn thất (đáng kể) cho ngân sách và kể cả cho NHNN, ngoại trừ việc làm phình to quy mô bảng cân đối tài sản của NHNN mà tác động của nó không thuộc phạm vi bài viết này.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).