Friday 26 July 2019

Trong “ma trận” trái phiếu doanh nghiệp (Bài đăng trên TBKTSG, bản gốc, 26/7/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/291883/trong-ma-tran-trai-phieu-doanh-nghiep-.html

TBKTSG số 29 phát hành tuần trước có bài viết nhan đề “Nhận diện những nhân tố cản trở thị trường trái phiếu doanh nghiệp”. Theo đó, việc nhà đầu tư hiện dễ bị lạc/dụ vào “ma trận” trái phiếu doanh nghiệp với lẫn lộn thông tin thật giả, mập mờ sẽ góp phần cản trở sự phát triển lành mạnh của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong bài viết này, chúng ta sẽ phân tích sâu thêm về vấn đề này, chỉ ra những nguy cơ lớn đi kèm với một thị trường trái phiếu doanh nghiệp bất minh bạch. Một số giải pháp giám sát hữu hiệu cũng sẽ được đề xuất để “lập lại trật tự” trên thị trường này, giúp trái phiếu doanh nghiệp thực sự trở thành công cụ thúc đẩy đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.  
Không chỉ làm “trắng tay” nhà đầu tư...
Trong lĩnh vực tài trợ vốn qua ngân hàng, chủ nợ cuối cùng là người gửi tiền, một dạng đầu tư dưới dạng tiền gửi vào ngân hàng thương mại. Nhưng người cho vay doanh nghiệp và, do đó, chịu rủi ro mất vốn, chính là ngân hàng chứ không phải người gửi tiền. Để giảm rủi ro tín dụng (rủi ro mất vốn khi cho vay), ngân hàng phải tiến hành phân tích, đánh giá người vay, khoản vay một cách kỹ lưỡng, giám sát chặt chẽ người vay trước, trong và thậm chí cả sau khi cho vay (khi người vay mất khả năng thanh toán). Không những vậy, ngân hàng còn có nhiều cách tự phòng vệ, ví dụ như giữ tài sản thế chấp của người vay và đa dạng hóa các khoản vay của mình.
Ngược lại, trong lĩnh vực tài trợ vốn bằng trái phiếu doanh nghiệp, chủ nợ cuối cùng là phần lớn là nhà đầu tư đại chúng, là những người tự quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Nhà đầu tư đại chúng thì đương nhiên sẽ đông đảo về số lượng, đa dạng về trình độ, nhận thức, và thường có xu hướng ra quyết định đầu tư dựa trên cơ sở lòng tin chứ không phải là những đánh giá chặt chẽ người vay, khoản vay như ở các ngân hàng. Bởi vậy, mỗi khi có tin xấu về doanh nghiệp phát hành trái phiếu (kinh doanh thua lỗ, gian lận trong phát hành...), nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp chỉ còn biết đổ xô bán tháo trái phiếu. Không chỉ có nguy cơ chịu thiệt hại lớn khi giá trái phiếu rơi tự do mà nhà đầu tư còn chịu rủi ro trắng tay nếu không kịp “thoát hàng” để rồi không còn tìm được người mua, dù với giá “bèo”.
Tuy vậy, hậu quả nguy hại không chỉ xảy ra với nhà đầu tư đại chúng mà còn có khả năng lan rộng ra toàn nền kinh tế. Trái phiếu doanh nghiệp thực tế được nắm giữ bởi không chỉ nhà đầu tư đại chúng mà còn các quỹ quản lý tài sản, quỹ đầu tư mạo hiểm, thậm chí các ngân hàng và các tổ chức/doanh nghiệp (phi) tài chính khác. Đến lượt mình, dựa trên hàng hóa là trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ, các tổ chức tài chính lại thiết kế và bán ra các sản phẩm tài chính ra thị trường mà người mua lại chính là các quỹ, các tổ chức/doanh nghiệp khác. Cứ như vậy nhân lên để rồi mỗi khi có một đợt bán tháo trái phiếu doanh nghiệp thì thị trường sẽ lại một phen chao đảo mạnh, với chấn động lan truyền ra toàn nền kinh tế. Bởi rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ lan ra các thị trường tài chính khác, đẩy lợi suất trái phiếu Chính phủ, lãi suất ngân hàng tăng mạnh, nhiều doanh nghiệp cũng vì thế mà đối mặt với mất khả năng thanh toán.
Giải pháp
Hy vọng nhà đầu tư “khôn” ra, tránh được những khoản đầu tư vào các trái phiếu doanh nghiệp “xấu” để không kích hoạt hàng loạt đổ vỡ tiếp theo sẽ chỉ là ảo vọng. Lý do chủ yếu không chỉ, như đã nói, nằm ở sự cả tin và trình độ nhận thức biến thiên quá lớn giữa các nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư tổ chức, mà chủ yếu còn nằm ở chuyện bất đối xứng, không minh bạch về thông tin. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng thông tin về dự án mà vì đó họ huy động vốn qua phát hành trái phiếu thường là rất không rõ ràng, không được công bố đầy đủ, thường chỉ chứa đựng những điều tốt đẹp, sáng lạn và không ít trường hợp là thông tin không trung thực, mang tính lừa gạt. Nên cũng sẽ không có gì lạ nếu thấy nhiều dự án cùng loại trên thị trường thậm chí còn không có được tỷ suất lợi nhuận cao như lợi suất trái phiếu mà doanh nghiệp phát hành hứa hẹn chi trả. Nhà đầu tư dù có muốn nhưng thực tế cũng sẽ rất khó tiếp cận doanh nghiệp phát hành để tìm hiểu, đánh giá và phân tích tính hấp dẫn và an toàn của trái phiếu như cách mà ngân hàng đánh giá người vay tiềm năng.        
Bởi vậy, để tránh những xáo trộn, đổ vỡ xảy ra trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp thì việc trước tiên cần làm là buộc doanh nghiệp minh bạch hóa thông tin, và thông tin bạch hóa cũng như bản thân doanh nghiệp cần được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán hoặc công ty kiểm toán chuyên nghiệp, uy tín. Doanh nghiệp và trái phiếu do doanh nghiệp phát hành cũng cần được xếp hạng tín nhiệm bởi các công ty xếp hạng chuyên nghiệp, độc lập.
Do những cơ quan/công ty kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm có quyền và nghiệp vụ tiếp cận và phân tích toàn diện tình hình sức khỏe doanh nghiệp phát hành trái phiếu nên nếu họ thực hiện nghiêm túc chức trách của mình thì sẽ giúp loại ra ngay được những doanh nghiệp gian dối, phát hành trái phiếu với mục đích lừa đảo, hoặc những trái phiếu có chất lượng thấp, của những doanh nghiệp thuộc loại “phát hành hay là chết”!
Dẫu vậy, với tình trạng thiếu hụt các công ty và đội ngũ nhân lực kiểm toán, đánh giá xếp hạng tín nhiệm có chất lượng cao ở Việt Nam, chưa kể vẫn còn trường hợp kết quả kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm bị bóp méo bởi động cơ vụ lợi như đã từng xảy ra, phải thừa nhận và chấp nhận một khoảng tối nhất định trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong một thời gian tương đối nữa cho đến khi các nguồn lực và chế tài hoàn bị hơn. Để rút ngắn khoảng trống về thời gian này thì vai trò giám sát thực thi và hỗ trợ về cơ chế của các cơ quan chức năng là hết sức quan trọng. Nên vẫn có thể nói không quá, không thừa rằng thành công của thị trường trái phiếu doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực giám sát và tạo dựng thị trường của Chính phủ.
Bên cạnh giải pháp mang tính ngăn ngừa trên là giải pháp giảm thiểu rủi ro hệ thống. Theo đó, cơ quan chức năng cần cô lập việc lan truyền các rủi ro nảy sinh từ sự lao dốc của một trái phiếu doanh nghiệp để hạn chế hậu quả lan rộng ra nền kinh tế. Việc cho phép bán các sản phẩm đầu tư phái sinh được “chế tạo” từ trái phiếu doanh nghiệp có mức độ rủi ro cao, hoặc việc dùng trái phiếu doanh nghiệp này làm tài sản thế chấp để mua trái phiếu doanh nghiệp khác... là những việc cần được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và triệt để. Đáng tiếc là dù trên thị trường đã xuất hiện những sản phẩm và “nghiệp vụ” này nhưng dường như cơ quan chức năng vẫn chưa có động thái xử lý thích ứng nào.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).