Sunday 15 September 2019

Giải ngân đầu tư công: Mục tiêu cuối cùng vẫn phải là hiệu quả (Bài đăng trên TBKTSG, 15/9/2019, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/td/293937/giai-ngan-dau-tu-cong-muc-tieu-cuoi-cung-van-phai-la-hieu-qua.html


Bộ Tài chính vừa báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thanh toán vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ 8 tháng năm 2019. Theo bộ này, ước thanh toán vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách 8 tháng là hơn 161.286 tỷ đồng, đạt 37,92% so với kế hoạch Quốc hội giao và đạt 41,39% so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Kết quả giải ngân này thấp hơn so với cùng kỳ năm 2018, bởi cùng kỳ năm 2018, giải ngân 8 tháng đạt 44,24% kế hoạch Quốc hội giao và 45,57% kế hoạch Thủ tướng giao.

Lý do... kinh niên!

Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đây đã tổng kết các lý do đằng sau chậm giải ngân đầu tư công, gồm: Sự chậm giao kế hoạch từ cấp các bộ, ngành, địa phương cho các dự án cụ thể; một số dự án mà các bộ, ngành, địa phương đề xuất chưa đủ thủ tục đầu tư theo quy định, chưa đủ cơ sở pháp lý; tại các cơ quan tổng hợp như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, công tác đôn đốc chưa kịp thời, quyết liệt, dẫn tới tình trạng chờ đợi lẫn nhau; do Luật Đầu tư cho phép giải ngân được kéo dài sang năm sau nên dẫn tới tâm lý không tích cực, tập trung trong việc giải ngân; giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn; năng lực nhà thầu hạn chế; một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự chủ động, quyết liệt trong việc chỉ đạo chủ đầu tư thực hiện các giải pháp đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, chưa tích cực trong việc hoàn chỉnh các thủ tục đấu thầu, lựa chọn nhà thầu, hoàn thiện hồ sơ...(1)

Có thể nói nhiều trong số những lý do cho sự chậm chễ trên là những lý do mang tính kinh niên thường xuyên đã được đưa ra nhiều năm qua và người dân không còn mấy ngạc nhiên hay quan tâm nữa. Ngay cả khi đã có liên tục nhiều chất vấn cũng như các loại công điện, công văn hết yêu cầu đến nhắc nhở “quyết liệt” và “nghiêm khắc” của từ Quốc hội, Thủ tướng và Phó Thủ tướng Chính phủ đến các bộ, ngành, địa phương thì sự chậm giải ngân đầu tư công – không chỉ chậm so với kế hoạch mà còn chậm so với năm trước theo kiểu “phú quý giật lùi” – vẫn tiếp diễn như không hề có gì xảy ra, bởi đơn giản là các yêu cầu và nhắc nhở này không giúp gì cho việc gỡ rối mớ bùng nhùng những lý do gây chậm chễ, vốn không thể lần ra đâu là đầu, đâu là cuối này. Do vậy, chuyện giải ngân đầu tư công chậm sẽ là chuyện thời sự kinh niên.

Cần xét lại vai trò của đầu tư công

Dường như đã có một quan niệm bám rễ trong tư duy của các nhà làm chính sách rằng đầu tư công, mà cụ thể là ở Việt Nam, là điều luôn tốt, luôn cần được đẩy mạnh tối đa có thể. Ngược lại, không tích cực đầu tư công thì sẽ gây hệ lụy lớn cho nền kinh tế. Quan niệm này cũng được nêu rõ bởi đại diện của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Theo đó, giải ngân chậm sẽ làm giảm ý nghĩa tác động của vốn đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế hàng quý (1).

Trên thực tế, tác động của đầu tư công đối với nền kinh tế không nhất thiết diễn ra một chiều như vậy, và cũng không nên nhìn nhận vấn đề một cách ngắn hạn, phiến diện như vậy. Đầu tư công trước hết phải tính đến hiệu quả, đặc biệt là khi đầu tư công được tài trợ chủ yếu bằng vay nợ như ở Việt Nam. Chắc chắn không ai phủ định việc Mobifone mua AVG không phải là một khoản đầu tư công. Và cũng chắc chắn không ai phủ nhận đầu tư vào 12 dự án thua lỗ, “đắp chiếu” của Bộ Công thương không phải là đầu tư công. Khoản trái phiếu 700 triệu đô la Chính phủ phát hành cho Vinashin chắc chắn cũng không nằm ngoài khái niệm đầu tư công. Vậy nhưng kết quả của các khoản đầu tư công này như thế nào thì có lẽ thôi không nên lặp lại ở đây cho thêm đau xót và... bẽ bàng! Mà cũng quên chưa kể thêm những con đường, những đường sắt xây bằng vốn ngân sách chưa bàn giao đã lở lói, hoặc thời điểm được bàn giao... không thể xác định!

Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn khi số tiền ngân sách đổ ra sông ra biển trên đa phần là đi vay, từ đủ nguồn trong và ngoài nước, ưu đãi có mà theo “giá chợ” cũng có, tiền lãi cộng dồn tăng dập hàng năm nghe mà thất kinh. Với kiểu đầu tư công như vậy thì nền kinh tế và ngân sách cùng lúc chịu hai cú đấm tận mạng, nên hiển nhiên là không đầu tư công có khi còn tốt hơn!

Rốt cuộc phải làm gì?

Như đã nói ở trên, trong mớ bòng bong rối rắm những lý do gây ra chậm chễ không hoặc chưa thấy lối thoát, trước tiên phải xét lại năng lực lập kế hoạch và đặt mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ. Ở phía giao tiền, không năm nào giải ngân đầu tư công không tụt xa so với kế hoạch và mục tiêu mà vẫn cứ đặt mục tiêu năm sau đầu tư phải cao hơn năm trước là điều cần phải thay đổi, nếu không chắc chắn chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề.

Ngược lại, ở phía tiêu tiền, cũng như đã nói, đầu tư công không phải luôn là tốt, nhất là trong cơ chế hiện không có gì đảm bảo đầu tư công là tốt, thì cần phải được thắt chặt, cắt giảm, giới hạn tối đa ở những dự án mà tính hiệu quả là điều không bị ai phản đối. Làm được như vậy và kết hợp với sự tiết giảm ở phía giao tiền như nêu trên thì tự khắc tỷ lệ giải ngân đầu tư công sẽ tăng vọt.

Chưa hết, liên quan đến lý do nêu ra rằng giải ngân đầu tư công chậm còn do các bộ, ngành, địa  phương không chủ động, quyết liệt, tích cực..., lưu ý các bộ, ngành, địa phương là nơi có/thực hiện các dự án đầu tư công. Theo quan niệm đầu tư công là tốt thì lẽ ra họ phải chủ động và tích cực thực hiện đầu tư công vì có thế thì mới đem lại thành tích cho mình. Nay họ không “mặn mà” với giải ngân đầu tư công có khác chi họ không cần, không muốn, không thấy lợi ích của, không có năng lực thực hiện đầu tư công? Với “đối tượng thụ hưởng” như vậy mà cứ bắt ép phải tiêu tiền thì càng dễ có nguy cơ ném tiền qua cửa sổ. Nên giải pháp tốt nhất là phải “trông mặt trao tiền”! Làm được như vậy thì tự khắc vấn đề đầu tư công trở nên thông suốt mà chẳng cần phải đôn đốc, nhắc nhở với đe dọa nữa.

(1) https://baodautu.vn/giai-ngan-von-dau-tu-cong-se-duoc-cai-thien-d106710.html

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).