Saturday 21 September 2019

Định vị lại sứ mệnh của doanh nghiệp nhà nước (Bài đăng trên TBKTSG, 22/9/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/294215/dinh-vi-lai-su-menh-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc.html


Trong Hội nghị chuyên đề trực tuyến của Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương ngày 9/9 về tình hình triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết số 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình hỏi các lãnh đạo DNNN: "doanh nghiệp nhà nước là then chốt, có nhất trí thế không?". Theo báo chí tường thuật thì đáp lại câu hỏi này là sự im lặng. Phải gần 2 giờ sau mới có một người trả lời rằng “không phải đầu cũng phải tai”.

Cũng trong hội nghị, ông Bình khẳng định doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.

Sứ mệnh mâu thuẫn

Trích dẫn hai sự kiện trên để thấy trước hết về phần vai trò, sứ mệnh của DNNN, thực chất là gánh nặng trách nhiệm, nghĩa vụ mà DNNN phải đáp ứng, hoặc được kỳ vọng từ phía “trên”, là quá nhiều. Quan trọng hơn, các nghĩa vụ này có mâu thuẫn với nhau, khó có thể “chung sống hòa bình”.

Cụ thể, là công cụ để ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát thì thường sẽ có nghĩa là DNNN phải “mua đắt”, “bán rẻ”, ví dụ tăng giá thu mua nông sản để hỗ trợ nông dân nhưng lại phải bán giá rẻ hơn thị trường như kiểu cửa hàng “bình ổn giá”. Kinh doanh kiểu này tất nhiên lãnh đạo doanh nghiệp có tài đến mấy thì vẫn không tránh khỏi thua lỗ, trừ khi được Nhà nước bù đắp thua lỗ bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng ngân sách. Nếu như vậy thì DNNN sẽ không thể thực hiện tròn vai nghĩa vụ thứ hai là tạo nguồn thu lớn cho ngân sách, bởi một mặt thì DNNN đang đối mặt với nguy cơ thua lỗ thì lấy đâu ra mà đóng góp cho ngân sách. Ngược lại, ngân sách lại phải bỏ ra để bù đắp cho DNNN khỏi thua lỗ.

Tương tự như vậy, một mặt DNNN phải đối mặt với thương trường, cạnh tranh khốc liệt trong và ngoài nước, nhưng mặt khác vẫn phải đóng góp vào các nhiệm vụ chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng...  Tức là cùng lúc phải căng mình làm nhiều việc mà việc nào cũng phải làm tốt thì không “vật vờ” mới là lạ.

Nói như vậy để thấy ngay việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của DNNN thôi đã có vấn đề, để rồi từ đó lại tiếp tục nảy ra nhiều vấn đề khác trên thực tế liên quan đến DNNN.

Quyền lợi, quyền hạn cũng mâu thuẫn

Về các loại quyền đối với DNNN, câu phát biểu “không phải đầu cũng phải tai” cũng đủ tóm tắt những sự “chéo ngoe”. DNNN bị hạn chế quyền tự chủ, nhiều thứ muốn quyết không được mà phải “xin ý kiến trên”. Nếu làm đúng theo tinh thần ông Bình giục giã trong hội nghị ("dồi dào niềm tin, cũng như ra trận, thiếu niềm tin thì không thể thắng. Phải có niềm tin để từng bước gây dựng lại hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp nhà nước"), hay câu giục giã của một vị lãnh đạo trước đây đối với Vinashin (“phải táo bạo, táo bạo hơn nữa”) thì sự mạnh dạn, tự tin, táo bạo, dám nghĩ dám làm dễ trở thành họa không chỉ cho bản thân lãnh đạo doanh nghiệp, DNNN, mà còn cho cả nền kinh tế, kể cả khi sự táo bạo, tự tin này xuất phát từ động cơ trong sạch.

Sự ràng buộc về cơ chế, thể chế pháp luật, sự trì trệ, lạc hậu nhưng quá... thừa thãi của đội ngũ công chức quản lý DNNN là một số trong những yếu tố trói chân trói tay DNNN muốn “làm lớn” trong khi lại tạo ra những cơ hội béo bở cho lãnh đạo DNNN cấu kết với một bộ phận công chức quản lý trục lợi của công.

Lối thoát

Khi Tòa soạn báo đặt tác giả viết bài này có nêu câu hỏi là làm thế nào để nâng cao tính hiệu quả của DNNN. Với câu hỏi “đau đáu” này thì trước khi trả lời, cần phải hỏi lại là hiệu quả ở mặt nào? Nhưng e rằng hỏi thế thì làm khó quá nên xin trả lời hộ luôn vậy.

Như trên đã nêu, trước sự “đa nhiệm” đầy mâu thuẫn trong khi “nhất cử nhất động” đều phải xin phép ai đó trong một thời gian có khi bất định nếu không muốn bị truy tố tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng thì chẳng thể nào có phép mầu, lời giải nào để đạt hiệu quả trên bất cứ phương diện nào.

Nhận diện vấn đề rõ như vậy rồi thì cũng sẽ nhìn thấy lối thoát. Về mặt nghĩa vụ, phải xác định, định vị rõ DNNN có trách nhiệm, nghĩa vụ gì. Về mặt này, gợi ý cho câu trả lời nằm ở chữ “doanh nghiệp”. Đã là doanh nghiệp thì dứt khoát phải đặt chữ “lợi nhuận” lên hàng đầu, và cũng chỉ duy nhất chữ này mà thôi, chỉ có chữ này được lấy làm thước đo hiệu quả. Điều này có nghĩa là DNNN nắm vốn Nhà nước giao phó phải có trách nhiệm làm vốn này sinh sôi nảy nở, như mô hình của Temasek ở Singapore. Thực thể này ở Singapore chẳng có nghĩa vụ phải ổn định vĩ mô, đóng góp vào an ninh, quốc phòng, xã hội. Điều hành Temasek là một đội ngũ quản lý giàu kinh nghiệm quản lý các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước chứ không phải là đội ngũ quan chức ngồi bàn giấy như ở ta. Kết quả quản lý được đánh giá qua các chỉ tiêu cụ thể (KPI) cứ theo đó đội ngũ quản lý sẽ biết ai được ở lại, ai phải ra đi.

Chắc chắn nhiều người sẽ sợ hãi trước viễn cảnh này và đặt câu hỏi, vậy thì lấy ai làm các nhiệm vụ thay cho các DNNN truyền thống đây? Xin nói luôn là việc nào ra việc đấy, ai làm việc người đó. Doanh nghiệp thì chỉ nên kinh doanh làm lãi. Chuyện ổn định vĩ mô thì đã có các chính sách quản lý vĩ mô, qua các công cụ thuế, chính sách phúc lợi, an sinh. Chuyện an ninh, quốc phòng thì là của ngành an ninh, quốc phòng với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước.

Đối với những người chưa “yên tâm” thì xin lấy ví dụ như thế này. Nhà nước muốn làm một con đường đến vùng sâu, vùng xa mà theo nếp nghĩ thông thường thì chỉ có DNNN mới “xung phong” đảm nhận còn doanh nghiệp tư nhân thì “mất hút”. Nhưng tiền đâu để DNNN làm dự án này? Rõ ràng là dự án không thể “tự nó rán mỡ nó” vì doanh nghiệp tư nhân không muốn làm. Có nghĩa là để DNNN đứng ra làm con đường này thì Nhà nước phải rót vốn cho DNNN này bằng cách này hay cách khác. Lúc đó DNNN về bản chất trở thành nhà thầu công trình, tức xây thuê. Nếu vậy thì Nhà nước cũng hoàn toàn có thể thuê doanh nghiệp tư nhân thực hiện dự án, đồng nghĩa với “sứ mệnh” đóng góp phát triển cơ sở hạ tầng của DNNN trở nên vô nghĩa.

Trường hợp Nhà nước không có đủ tiền để thực hiện dự án với tư cách là chủ dự án thì cũng không có nghĩa là DNNN sẽ đứng ra nhận thay và nhận luôn phần lo vốn và trả nợ, bởi rốt cuộc tiền vào hay ra cũng đều cùng địa chỉ là ngân sách nhà nước. Trong những trường hợp này thì thường Nhà nước phải dùng đến các công cụ khác như đổi đất lấy hạ tầng, hoặc bằng chính sách ưu đãi nào đó để bù đắp thiệt hại cho doanh nghiệp “xung phong” làm thay Nhà nước. Lúc đó dù không có DNNN thì vẫn có nhiều doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng muốn làm.
Tóm lại, muốn DNNN tồn tại và lớn mạnh thì buộc phải định vị lại trách nhiệm và quyền hạn của DNNN theo hướng biến DNNN thành doanh nghiệp đơn thuần theo đuổi lợi nhuận với nguồn vốn công cộng nhưng được quản lý theo những nguyên tắc thị trường bởi những con người am tường kinh doanh hoạt động trong khuôn khổ pháp luật như đối với các doanh nghiệp tư nhân khác.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).