Sunday 8 September 2019

Xét lại với... VAMC (Bài đăng trên TBKTSG báo giấy, ngày 29/8/2019, bản gốc, tiêu đề do báo đặt lại)


Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC ) cho biết với nhiệm vụ xử lý nợ xấu tập trung, hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong xử lý nợ xấu, họ đã chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm xử lý nhanh, dứt điểm, có hiệu quả nợ xấu, từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong hoạt động xử lý nợ gắn với tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng. (1) VAMC cũng cho biết vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có nguồn lực tài chính.

Theo lộ trình như trong Quyết định 1058 của Thủ tướng Chính phủ, VAMC sẽ được cấp 5.000 tỷ vốn điều lệ vào năm 2018 và 10.000 tỷ vào năm 2020, nhưng hiện tại vốn điều lệ của VAMC mới chỉ có 2.000 tỷ đồng. Thế nên VAMC đã nhiều lần yêu cầu, thông qua cơ quan chủ quản là Ngân hàng Nhà nước, được tăng vốn điều lệ để có nguồn lực xử lý nợ xấu. Một yêu cầu rất chính đáng và hợp lý!

Thế nhưng, gần đây dư luận mới được phen “té ngửa” khi Kiểm toán Nhà nước kết luận: “VAMC chưa thực hiện vai trò trong việc mua và xử lý nợ xấu” .(1) Cụ thể, VAMC đã không thực hiện hàng loạt công việc mà họ đương nhiên phải làm như chức năng của mình đòi hỏi, gồm: không thẩm định giá mua (giá mua bằng nợ xấu trừ dự phòng rủi ro tổ chức tín dụng tự xác định); không kiểm tra, đánh giá khách hàng vay, tính trung thực, chính xác của hồ sơ, tài liệu và tài sản đảm bảo của khoản nơ; xử lý nợ xấu sau khi mua chủ yếu thông qua việc ủy quyền lại cho các tổ chức tín dụng bán nợ...

Lưu ý là những công việc trên không nhất thiết đòi hỏi phải có vốn (điều lệ) nhiều hơn. Chẳng hạn, với việc thẩm định giá mua, rõ ràng là VAMC đã có đủ nguồn lực để mua khoản nợ xấu nên việc cần làm chỉ là thẩm định giá mua có hợp lý hay không mà thôi. Tương tự, việc kiểm tra, đánh giá khách hàng vay, tính trung thực, chính xác của hồ sơ, tài liệu và tài sản đảm bảo của khoản nợ thì chỉ cùng lắm là cần nhân viên thẩm định (hưởng lương công chức) rời ghế văn phòng lạnh do Nhà nước cấp đi ô tô cũng do Nhà nước cấp cho VAMC đến gặp những đối tượng cần gặp, kiểm tra những thứ cần kiểm tra..., hoàn toàn không có khó khăn, trở ngại gì nhưng VAMC cũng không làm. Ngay cả việc “vất vả” nhất là xử lý nợ xấu sau khi mua thì VAMC cũng giải quyết rất “ổn thỏa” bằng cách “ủy quyền”, tức phó mặc cho các tổ chức tín dụng bán nợ cho họ tự giải quyết.

Nói cách khác, với một VAMC được dựng nên với chức năng và sứ mệnh hoành tráng, thiết yếu như vậy nhưng thực tế không một chức năng nào được họ thực hiện thì điều các cơ quan chức năng cần đặt ra ngay với VAMC là có nên để một tổ chức hưởng ngân sách nhà nước như thế tồn tại hay không, phải xử lý, kỷ luật ban lãnh đạo VAMC như thế nào, chứ không phải là đề xuất và phê duyệt tăng thêm vốn điều lệ cho VAMC.

Ngược lại, nếu vẫn muốn tiếp tục để VAMC tồn tại, thậm chí tăng thêm vốn cho họ (mặc dù thực tế đã cho thấy vai trò của tổ chức này như thế nào) thì cơ quan chức năng phải trả lời thỏa đáng mấy câu hỏi sau: (i) điều gì và ai đã làm cho VAMC không thực hiện được vai trò của mình như kết luận của Kiểm toán Nhà nước? (ii) mua nợ xấu bằng tiền “tươi” liệu sẽ thật sự hiệu quả hơn khi VAMC mua bằng trái phiếu đặc biệt không, và cụ thể là như thế nào? và (iii) khi được rót vốn thêm, cần làm thế nào để đảm bảo VAMC không tái lập việc cứ “mua đại” nợ xấu, bê về “chất kho”, hoặc cùng lắm thì tiếp tục “ủy thác” cho tổ chức tín dụng tự xử...

Nếu không trả lời thỏa đáng được các câu hỏi trên thì cần dừng ngay việc xem xét tăng vốn cho VAMC, sau đó xem xét đến kế hoạch cải cách, trấn chỉnh toàn diện tổ chức này nếu vẫn tiếp tục muốn để nó tồn tại. Nếu không thì sẽ tiếp tục có một nguồn lực lớn cả về con người lẫn ngân sách trả lương và kinh phí hoạt động bị quăng qua cửa sổ.
(1) https://vietnamfinance.vn/kiem-toan-nha-nuoc-vamc-chua-thuc-hien-vai-tro-trong-viec-mua-va-xu-ly-no-xau-20180504224225884.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).